
Dự án VTOL trị giá 192 triệu bảng Anh, dùng động cơ RB.193 và hai động cơ nâng. Thiết kế thon với tỷ lệ mảnh cao, nhưng lực đẩy/thể trọng thấp và cánh nhỏ khiến khả năng cơ động kém. Ngừng phát triển năm 1972.

Máy bay “đuôi ngồi” thử nghiệm, dùng động cơ Rolls‑Royce Avon. Từng bay qua sông Potomac và đáp xuống Lầu Năm Góc, nhưng quân đội kết luận không cần khả năng này nên dự án bị dừng

Thiết kế trinh sát mục tiêu cho Lục quân Mỹ. Tốc độ tối đa 833 km/h. Hệ thống nâng kiểu phun - hút (ejector‑augmenter) cho lực đẩy thấp, cả hai nguyên mẫu đều rơi, một phi công thiệt mạng. Dự án thất bại.

Tiêm kích VTOL Liên Xô, phục vụ 1976–1991 và tham chiến Afghanistan. Có hai động cơ nâng và một động cơ hành trình. Sản xuất khoảng 200 chiếc. Tầm bay và tải trọng yếu, dễ mất ổn định khi hỏng động cơ nâng.

Dùng hệ thống quạt nâng trong cánh, tạo lực đẩy gấp 3 lần vòi phun phản lực thông thường. Tuy nhiên điều khiển khó, tăng tốc kém và từng hút cả hình nộm vào quạt. Nhiều tai nạn chết người khiến dự án bị hủy

Máy bay 6 động cơ, đạt Mach 1.14 (1.408 km/h). Hệ thống điều khiển phức tạp với động cơ ở mũi và đầu cánh. Gặp vấn đề hút khí nóng và xói mòn mặt đất khi dùng đốt sau, nên không được đưa vào sản xuất

Máy bay vận tải VTOL duy nhất từng bay. Dùng để hỗ trợ tác chiến tiền phương nhưng bị thay thế bởi Fiat G.222 (nay là C‑27 Spartan) rẻ và hiệu quả hơn. Do 31 được xem là giải pháp cho yêu cầu sai ngay từ đầu

Đạt Mach 1.4 (~1.715 km/h), có vòi phun xoay 3D tiên tiến. Tuy nhiên, nó gặp vấn đề tiếng ồn lớn và hút khí nóng khi bay thẳng đứng. Dự án dừng năm 1991, là nền tảng cho Yak‑43 và Yak‑201 sau này

Tiêm kích tàng hình STOVL đầu tiên vượt âm và vào biên chế. Dùng hệ thống ILFPS với quạt nâng và vòi phun xoay. Tầm bay ngắn hơn F‑35A do chứa ít nhiên liệu. Được Mỹ, Anh, Ý, Nhật, Singapore, Hàn Quốc sử dụng.

Máy bay VTOL đầu tiên vào biên chế (1969). Dùng bốn vòi phun điều hướng lực đẩy, không cần động cơ nâng. Phục vụ Anh, Mỹ, Ấn Độ; bản Sea Harrier hoạt động đến 2016. Đặt nền móng cho Harrier II sau này.