Việc đưa nó vào hoạt động năm 1906 đánh dấu một bước tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật hải quân khiến tên nó trở nên gắn liền với cả một thế hệ thiết giáp hạm mới, "Dreadnought", cũng như của lớp tàu đặt tên theo nó.
Thế hệ thiết giáp hạm trước đó mà nó khiến trở nên lạc hậu được biết đến dưới tên gọi thiết giáp hạm tiền Dreadnought. Nó là chiếc tàu chiến thứ sáu của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này.
Việc hạ thủy nó đã kích thích một cuộc chạy đua vũ trang hải quân, khi các thế lực hải quân khắp thế giới, đặc biệt là Hải quân Đế quốc Đức đổ xô chạy theo trong việc chế tạo Dreadnought, là một trong những nguyên nhân sâu xa của Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Nó có chiều dài chung 527 feet (160,6 m), mạn thuyền rộng 82 feet 1 inch (25,0 m) và độ sâu của mớn nước là 29 feet 7,5 inch (9,0 m) khi đầy tải.
Dreadnought mang theo 2.868 tấn Anh (2.914 tấn) than cùng bổ sung thêm 1.120 tấn Anh (1.140 tấn) dầu đốt để phun trên than nhằm làm tăng tốc độ cháy.
Ở trữ lượng nhiên liệu tối đa, nó có thể đi được 6.620 hải lý (12.260 km; 7.620 mil) với tốc độ đường trường 10 hải lý một giờ (19 km/h; 12 mph).
Nó có lượng choán nước tiêu chuẩn là 18.120 tấn Anh (18.410 tấn), và lên đến 20.730 tấn Anh (21.060 tấn) khi đầy tải, nặng hơn nhiều so với những chiếc trước đó.
Nó có chiều cao khuynh tâm 5,6 feet (1,7 m) khi đầy tải và một đáy kép toàn bộ.