F/A-18E/F - Biến thể nâng cấp mạnh nhất của "Ong bắp cày" F/A-18

ĐTN |

F/A-18E/F được xem như một máy bay tiêm kích đa chức năng thật sự, thay thế cho F-14 Tomcat và F/A-18A/C trong vai trò chiếm ưu thế trên không, tấn công và trinh sát.

Chương trình Hornet 2000 - Nguồn gốc hình thành Super Hornet

Trong những năm 1980, tổng thống Ronald Reagan tham gia sâu vào việc xây dựng quân đội Mỹ, với kinh phí lớn cung cấp cho hàng loạt các hệ thống vũ khí. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Caspar Weinberger có câu nói đùa khi miêu tả việc này: "Chưa bao giờ nhìn thấy một hệ thống vũ khí nào mà anh ta không thích".

Nguyên mẫu máy bay tấn công đêm Grumman A-6F Intruder II, đây là chương trình nâng cấp dòng máy  bay tấn công A-6 Intruder với khả năng tấn công đêm. Vì đây dòng máy bay này có tầm bay xa và tải trọng mang vũ khí nhiều hơn so với F/A-18C+/D+ Night Attack Hornet. Tuy nhiên chương trình này đã bị hủy và Hải quân Mỹ muốn tài trợ cho chương trình A-12 Avenger II

Nguyên mẫu máy bay tấn công đêm Grumman A-6F Intruder II, đây là chương trình nâng cấp dòng máy bay tấn công A-6 Intruder với khả năng tấn công đêm.

Dòng máy bay này có tầm bay xa và tải trọng vũ khí mang được nhiều hơn so với F/A-18C+/D+ Night Attack Hornet. Tuy nhiên chương trình đã bị hủy do Hải quân Mỹ muốn tài trợ cho chương trình A-12 Avenger II.

Vào thời điểm đó, Không quân Hải quân Mỹ sử dụng các loại máy bay chỉ để thực hiện đơn lẻ các nhiệm vụ, như máy bay tiêm kích đánh chặn/bảo vệ hạm đội F-14 Tomcat, F/A-18A Hornet; máy bay tấn công mặt đất A-7 Corsair II, F/A-18A Hornet; máy bay tấn công đêm A-6E Intruder; máy bay trinh sát RF-8.

Do một số máy bay thế hệ cũ như A-7 Corsair II, A-6E Intruder hay RF-8 đã “có tuổi” và hết niên hạn sử dụng, còn F-14 thì không có khả năng tấn công mặt đất và F/A-18A/B Hornet lại bị giới hạn ở tầm bay và tải trọng mang vũ khí, vì vậy Hải quân Mỹ đã có một số chương trình để nâng cấp và thay thế.

Điển hình là các chương trình chế tạo máy bay tấn công đêm A-6F Intruder II, máy bay tiêm kích đa chức năng F-14D Tomcat, cũng như một máy bay tấn công tàng hình tiên tiến hoạt động trên tàu sân bay, McDonnell Douglas/General Dynamics A-12 Avenger II.

Ngoài ra còn có chương trình phát triển phiên bản cải tiến cho dòng Hornet để giải quyết một số hạn chế về tầm bay cũng như tải trọng mang vũ khí.

Mô hình thử nghiệm của máy bay tấn công tàng hình tiên tiến hoạt động trên tàu sân bay McDonnell Douglas/General Dynamics A-12 Avenger II. Một dự án đầy tham vọng của Hải quân Mỹ. Tuy nhiên chương trình A-12 Avenger II cũng bị loại bỏ vì khó khăn trong mặt kỹ thuật và tài chính cũng như không đáp ứng được thông số do Hải quân yêu cầu.

Mô hình thử nghiệm của máy bay tấn công tàng hình tiên tiến hoạt động trên tàu sân bay McDonnell Douglas/General Dynamics A-12 Avenger II, một dự án đầy tham vọng của Hải quân Mỹ.

Tuy nhiên chương trình A-12 Avenger II cũng bị loại bỏ vì khó khăn trong mặt kỹ thuật và tài chính, cũng như không đáp ứng được thông số do Hải quân yêu cầu.

Hải quân Mỹ cho rằng, tài trợ cho các chương trình phát triển vũ khí lớn như vậy và để duy trì trong thời gian dài chỉ có trong thiên đường của những kẻ ngốc, và dần dần các dự án bắt đầu được loại bỏ.

Chương trình phát triển A-12 Avenger II đã được chọn thay vì A-6F Intruder II, do đó các phiên bản Intruder tiên tiến đã ngừng bay và dự án phát triển đã đóng lại. Thật không may, chương trình A-12 Avenger II cũng bị loại bỏ vì khó khăn kỹ thuật và tài chính (A-12 chính thức bị hủy đầu năm 1991).

Hải quân vẫn đang lên kế hoạch để có được một máy bay tấn công tiên tiến, Hải quân và Không quân Mỹ hợp tác phát triển chương trình máy bay tấn công thế hệ mới “AX”, nhưng chương trình AX sẽ không thể đưa vào hoạt động cho đến năm 2020. Một cái gì đó ít tham vọng hơn là cần thiết trong lúc giao thời.

Các lựa chọn thay thế là một phiên bản đa chức năng của F-14D và các khái niệm được phát huy cho việc cải tiến Hornet - được gọi là "Hornet II", hay còn có tên khác là "Hornet 2000".

Những người ủng hộ chương trình Hornet 2000, trong đó bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Dick Cheney, cảm thấy rằng đây là lựa chọn rẻ hơn với chi phí thấp hơn, sẽ cung cấp đủ máy bay tiêm kích thế hệ mới cho Hải quân sử dụng đến khi chương trình AX cho ra máy bay mới.

Hình ảnh mô hình giới thiệu máy bay F/A-18 mới từ chương trình Hornet 2000.

Hình ảnh giới thiệu máy bay F/A-18 mới từ chương trình Hornet 2000.

Biểu đồ thể hiện sự tiến hóa của dòng máy bay tiêm kích F/A-18 Hornet cho đến F/A-18E/F Super Hornet.
Biểu đồ thể hiện sự tiến hóa của dòng máy bay tiêm kích F/A-18 Hornet cho đến F/A-18E/F Super Hornet.

Sau đó, chương trình AX đổi tên thành A/F-X và cuối cùng có tên chính thức là "Joint Strike Fighter" (Máy bay tiêm kích đa nhiệm), kết quả sau này chính là Lockheed Martin F-35 Lightning II.

Nhưng lúc này chương trình JSF vẫn chưa hoàn thành các mẫu thiết kế. Vì vậy, Hải quân chỉ còn chương trình Hornet 2000 là có thể đáp ứng được nhu cầu của họ vào lúc này.

Lockheed Martin F-35 Lightning II - Kết quả của chương trình Joint Strike Fighter.
Lockheed Martin F-35 Lightning II - Kết quả của chương trình Joint Strike Fighter.

F/A-18E/F Super Hornet - Kết quả của chương trình Hornet 2000

Một hợp đồng được trao cho McDonnell Douglas vào tháng 6/1992 để chế tạo 5 mô hình thử nghiệm dưới đất, 7 nguyên mẫu Hornet 2000 bao gồm 5 nguyên mẫu 1 chỗ ngồi và 2 nguyên mẫu 2 chỗ ngồi.

Từ chương trình Hornet 2000, 2 phiên bản đã được lên kế hoạch để sản xuất: F/A-18E 1 chỗ ngồi và F/A-18F 2 chỗ ngồi. F/A-18E/F được xem như một máy bay tiêm kích đa chức năng thật sự, thay thế cho F-14 Tomcat và F/A-18A/C trong vai trò chiếm ưu thế trên không, tấn công và trinh sát.

F/A-18E/F dự định sẽ được trang bị tên lửa không đối không tầm xa AIM-155, nhưng dự án phát triển tên lửa này đã bị hủy, do đó F/A-18E/F vẫn sử dụng AIM-120 AMRAAM để thực hiện nhiệm vụ không chiến ngoài tầm nhìn.

Nguyên mẫu F/A-18E 1 chỗ ngồi đầu tiên, tên là E1 (c/n-165164) được ra khỏi nhà máy Saint Louis vào ngày 19/9/1995. Các máy bay mới được đặt tên là "Super Hornet" (Siêu Ong bắp cày).

Nguyên mẫu F/A-18E (c/n-165164) “E1” trong một chuyến bay thử nghiệm có vũ khí.
Nguyên mẫu F/A-18E (c/n-165164) “E1” trong một chuyến bay thử nghiệm có vũ khí.

Nguyên mẫu F/A-18E (c/n-165164) thực hiện chuyến bay đầu tiên bay vào ngày 29/11/1995. Việc sản xuất FA-18E/F đợt đầu bắt đầu trong năm 1995. F/A-18E/F thực hiện hạ cánh trên tàu sân bay vào năm 1997, sản xuất với số lượng thấp từ tháng 3/1997 và dây chuyền vận hành đầy đủ từ tháng 9/1997.

Công việc đánh giá tiếp tục trong năm 1999 và kết thúc với thử nghiệm trên biển và nhiệm vụ tiếp nhiên liệu trên không. Tổng cộng có 3.100 chuyến bay thử nghiệm với 4.600 giờ bay. Super Hornet của Hải quân Mỹ đã trải qua thử nghiệm vận hành và đánh giá trong năm 1999, và được phê duyệt vào tháng 2/2000.

Nguyên mẫu F/A-18E (c/n-165168) “E4” trong một chuyến bay thử nghiệm góc tấn (AoA) lớn.
Nguyên mẫu F/A-18E (c/n-165168) “E4” trong một chuyến bay thử nghiệm góc tấn (AoA) lớn.
Nguyên mẫu F/A-18E (c/n-165166) “F1” thử nghiệm cất cánh trên tàu sân bay.
Nguyên mẫu F/A-18E (c/n-165166) “F1” thử nghiệm cất cánh trên tàu sân bay.

Super Hornet là một phiên bản thành công, đáp ứng chi phí, lịch trình và trọng lượng như Hải quân đề ra. Mặc dù có thiết kế chung và các hệ thống điện tử giống nhau, nhưng Super Hornet khác nhiều so với các phiên bản F/A-18 Hornet trước.

Super Hornet được chính thức gọi là "Rhino" (Tê giác) trong liên lạc radio để phân biệt nó với các phiên bản Hornet cũ, điều này giúp hỗ trợ các hoạt động bay an toàn.

Các máy phóng và hệ thống cáp giữ yêu cầu được thiết lập lại để đáp ứng việc hoạt động của Super Hornet trên tàu sân bay, do Super Hornet nặng hơn các phiên bản trước.

(Còn tiếp)

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại