Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với hơn 264,2 tỷ USD (chiếm 59,5% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản với hơn 66,7 tỷ USD (chiếm 15% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với hơn 38,3 tỷ USD (chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư).
Theo địa bàn, các nhà ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với hơn 56,4 tỷ USD (chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là Bình Dương với gần 36,7 tỷ USD (chiếm hơn 8,9% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với hơn 38,9 tỷ USD (chiếm gần 8,8% tổng vốn đầu tư).
Theo đối tác đầu tư, với sự xuất hiện của dự án mới tới từ nhà đầu tư Vanuatu, đã nâng tổng số quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam lên 143 đối tác.
Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký hơn 81,5 tỷ USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư). Singapore đứng thứ hai với hơn 72,5 tỷ USD (chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông.
Trong các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, ngoài Singapore, các quốc gia khác cũng đã đầu tư vào Việt Nam. Cụ thể, các quốc gia đã đầu tư vào Việt Nam là Thái Lan, Malaysia, Brunei, Campuchia, Philippines, Indonesia, Lào và Myanamar.
Trong đó, trong 3 tháng đầu năm 2023, Singapore dẫn đầu trong các quốc gia ở Đông Nam Á đầu tư vào Việt Nam với 75 dự án cấp mới và tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 1,69 tỷ USD. Theo sau là Thái Lan với 8 dự án cấp mới và tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 32,35 triệu USD. Xếp ở vị trí thứ 3 là Malaysia với 7 dự án cấp mới và tổng vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam đạt 3.65 triệu USD.
Các dự án đầu tư của doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Đứng thứ hai là hoạt động kinh doanh bất động sản, tiếp theo là lĩnh vực sản xuất điện.
Các dự án FDI của Thái Lan đầu tư vào Việt Nam đa số có quy mô nhỏ, các dự án có quy mô dưới 10 triệu USD chiếm tới gần 80% tổng số dự án đầu tư. Lĩnh vực thu hút nhiều dự án FDI của Thái Lan là công nghiệp chế biến, chế tạo.
Tính đến thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp Thái Lan đã đầu tư vào hơn 50 tỉnh, thành của Việt Nam nhưng chủ yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn, có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối thuận lợi như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Cùng với đó, các dự án đầu tư của Malaysia tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; đứng thứ hai là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo; tiếp theo là lĩnh vực sản xuất điện.
Malaysia hiện đã có đầu tư tại hơn 30 tỉnh, thành của Việt Nam (trong đó có khu vực dầu khí). Một số tỉnh, thành mà Malaysia đã đầu tư vào là TP. Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đối với Brunei, Campuchia, Philippines, Indonesia, Lào và Myanmar, các dự án của các quốc gia này đầu tư vào Việt Nam có quy mô tương đối nhỏ.
Xét về lũy kế tổng vốn đầu tư FDI đến tháng 3/2023, Singapore vẫn là nền kinh tế đầu tư nhiều tiền nhất vào Việt Nam trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Cụ thể, lũy kế tổng vốn đầu tư FDI từ Singapore vào Việt Nam đạt khoảng 72,52 tỷ USD với 3.189 dự án tính đến tháng 3/2023.
Luỹ kế tổng vốn FDI của các nước trong khu vực Đông Nam Á đầu tư vào Việt Nam đến tháng 3/2023. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bên cạnh đó, Thái Lan là nền kinh tế có lũy kế tổng vốn đầu tư đến tháng 3/2023 vào Việt Nam xếp thứ 2 trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Cụ thể, lũy kế tổng vốn đầu tư FDI từ Thái Lan vào Việt Nam đạt khoảng 13,14 tỷ USD với 691 dự án tính đến tháng 3/2023. Như vậy, ngoài Singapore, Thái Lan là quốc gia trong khu vực rót tiền đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam.
Các quốc gia còn lại như Malaysia, Bunei, Indonesia, Philippines, Lào, Campuchia và Myanmar có lũy kế tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đạt lần lượt là 13,08 tỷ USD; 971 triệu USD; 642 triệu USD; 607 triệu USD; 71,11 triệu USD; 69,43 triệu USD và 0,95 triệu USD.