1. Lò vi sóng
Một trong những lò vi sóng đầu tiên trên thế giới.
Vào năm 1944, Percy Spencer - một kĩ sư tại tập đoàn Raytheon đang làm việc với một dự án về radar. Trong khi đang thử nghiệm ống chân không mới, ông nhận ra rằng thanh sô cô la ông đang để trong túi chảy nhanh hơn bình thường.
Dựa vào đó, ông đã bắt đầu thử nghiệm bằng cách ngắm các ông này vào các đồ vật khác, như trứng và hạt ngô. Spencer kết luận rằng nhiệt mà các đồ vật này nhận được chính là từ năng lượng vi sóng.
Ngay sau đó, vào ngày 8 tháng 10 năm 1945, Raytheon đăng ký bản quyền cho lò vi sóng đầu tiên.
Lò vi sóng đầu tiên này nặng 340kg và cao tận 168cm, sau đó được dần dần cải tiến và có phiên bản cho nhà bếp đầu tiên vào 1965 với giá 500$.
Một chiếc lò vi sóng nhỏ gọn hơn phù hợp cho nấu ăn gia đình.
2. Quinin
Quinine, hay ở Việt Nam được gọi là Ký Ninh.
Quinin là một hợp chất chống sốt rét được tổng hợp từ vỏ cây. Hiện giờ công dụng chủ yếu của nó là để sản xuất nước tonic, đồng thời cũng được dùng để kết hợp tạo thuốc chống sốt rét.
Các cuộc truyền giáo của Jesuit ở Nam Mỹ sử dụng quinin để điều trị sốt rét từ những năm 1600, nhưng theo truyền thuyết thì nó cũng được dùng để điều trị bệnh người Andean - và phát hiện này thực ra là một sự may mắn.
Câu chuyện nói về một người Andean bị lạc trong rừng và ốm từ cơn sốt rét. Khi quá khát, anh uống từ một vũng nước chân cây Quina Quina.
Vị đắng từ những giọt nước này làm anh lo sợ rằng mình đã uống phải thuốc độc, nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Cơn sốt dịu dần, và anh đã tìm được đường về nhà và chia sẻ về loài cây thần kì.
Tuy câu chuyện này không có nguồn gốc rõ ràng, và có những bằng chứng khác về việc phát hiện ra tính chất y học của quinin, nhưng ít ra đây là một truyền thuyết hay ho về một phát hiện thay đổi thế giới.
Bây giờ nó được dùng chủ yếu trong sản xuất nước tonic.
3. Tia X
Wihelm Roentgen bên cạnh bức ảnh X Quang.
Vào năm 1895, một nhà vật lý người Đức tên Wihelm Roentgen đã thử nghiệm với một ống tia cathode.
Cho dù chiếc ống đã được che, ông thấy màn huỳnh quang ở gần đó sẽ phát sáng khi ống được bật và phòng tối. Bằng một cách nào đó, các tia đã chiếu sáng cái màn.
Roentgen đã cố bằng mọi cách để ngăn các tia này, nhưng hầu như vật dụng gì được đặt trước nó đều không có tác dụng.
Khi ông đặt tay của mình trước ống, ông nhận ra rằng xương của mình hiển thị lên chiếc màn đó. Roentgen liền thay chiếc ống bằng một tấm chụp hình để có thể chụp lấy hình ảnh, tạo ra ảnh X quang đầu tiên trên thế giới.
Công nghệ này sau đó đã được sử dụng bởi các tổ chức y học và các trung tâm nghiên cứu, cho dù việc phát hiện ra tác hại của phóng xạ X quang phải mất một thời gian để tìm hiểu.
Wihelm Roentgen đang thí nghiệm về tia X.
4. Vaseline
Robert Chesebrough và quảng cáo về Vaseline của mình.
Năm 1859, nhà hóa học 22 tuổi Robert Chesebrough đang điều tra một giếng dầu tại Pennsylvania khi ông nghe được lời đồn của các công nhân: một hợp chất dẻo được biết như "sáp khoan" đang chui vào trong các thiết bị và khiến chúng bị hỏng.
Nhưng không chỉ thế, hợp chất này còn được dùng cho nhiều ứng dụng. Chesebrough để ý rằng các công nhân đã dùng loại sáp này để làm dịu các vết cắt trên da, nên anh đã đem một ít về để thử.
Thông qua hàng loạt thí nghiệm, tới nay hợp chất "petrolium jelly" này được biết với cái tên Vaseline.
Chúng ta vẫn thường dùng Vaseline để chống khô môi, bảo vệ các vết cắt nhỏ trên da, v.v...
5. Insulin
Chú chó đã giúp ngành y học phát triển.
Phát hiện về insulin theo các nhà nghiên cứu được coi là một phát hiện ngẫu nhiên.
Vào năm 1889, hai bác sĩ tại đại học Strasbourg, Oscar Minkowski và Josef von Mering đang tìm hiểu về cách tuyến tụy hỗ trợ tiêu hóa, nên họ đã loại bỏ cơ quan này khỏi một chú chó khỏe mạnh.
Vào ngày sau, họ nhận ra một điều bất thường - một lượng lớn ruồi đã được thu hút xung quanh nước tiểu của chú chó này.
Khi xét nghiệm nước tiểu, kết quả cho thấy trong dung dịch có chưa đường - bằng cách loại bỏ tuyến tụy, chú chó đã bị bệnh béo phì.
Cả hai đều không biết rằng tuyến tụy đã điều tiết đường trong máu như thế nào, nhưng sau một loạt thí nghiệm khác từ năm 1920 tới 1922, các nhà nghiên cứu tại đại học Toronto đã tách được chất bài tiết ra từ cơ quan này - và đặt tên là insulin.
Đội ngũ nghiên cứu đã được trao thưởng giải Nobel, và trong vòng 1 năm công ty y dược Eli Lilly đã bắt đầu sản xuất và bán insulin.
Một bài báo về các bác sĩ chữa bệnh béo phì.
6. Teflon
Roy Plunkett nói về phát minh Teflon.
Nhờ nhà hóa học Roy Plunkett, Teflon đã được ra đời.
Plunkett đang là nhân viên của phòng thí nghiệm Jackson thuộc công ti Dupont vào năm 1938 khi ông đang tìm hiểu về một chất làm lạnh mới. Một hợp chất Plunkett thử nghiệm chính là khí ga tetrafluoroethylene (TFE).
Khi ông quay lại để mở một xi lanh để tích trữ khí ga này, một điều bất ngờ đã xảy ra - TFE đã bị polyme hóa, tạo thành một chất bột màu trắng kì lạ trong đó.
Tò mò, Plunkett đã thử một vài thử nghiệm và phát hiện rằng chất này không chỉ chống nhiệt mà còn có một bề mặt ít ma sát và kháng được các axit ăn mòn - lý tưởng cho đồ gia dụng nhà bếp.
Chảo chống dính, một ứng dụng của teflon. Người ta cũng hay gọi chảo chống dính là chảo teflon.
7. Keo siêu bền
Harry Coover và các sản phẩm của mình.
Khi Harry Coover Jr. tìm ra keo siêu bền thông qua hàng loạt thử nghiệm để tìm ra một ống kính trong suốt dành cho súng vào thế chiến thứ 2.
Ông đã thử nghiệm qua một họ hóa học gọi là acrylat, nhưng thấy công thức của mình quá dính và bỏ qua hợp chất đó.
Vào năm 1951, Coover đã xem xét lại họ acrylat này nhằm phát triển một lớp chống nhiệt cho buồng lái máy bay. Một ngày, đồng nghiệp Fred Joyner đã phết hợp chất acrylat vào giữa hai thấu kính để xét nghiệm bằng một khúc xạ kế, nhưng đột nhiên không thể tách nó ra nữa. Coover đã nhìn ra được triển vọng của nó từ tai nạn này, và sau vài năm nó được bày bán trên thị trường với tên Super Glue (Keo siêu bền).
Keo siêu bền được thử nghiệm bằng giấy và cốc.
8. Kính chắn gió an toàn của ô tô
Chân dung của nhà khoa học Edouard Benedictus.
Năm 1903, Edouard Benedictus, một nhà khoa học người Pháp đã đánh rơi một lọ chứa hợp dung dịch nitrat cellulose, một dạng chất nhựa lỏng. Chiếc lọ vỡ ngay lập tức, và dung dịch này bốc hơi - nhưng không hề có mảnh vỡ nào bị bắn ra ngoài.
Benedictus cho rằng lớp nhựa này đã giữ các mảnh kính lại đúng như hình chiếc lọ. Đây được coi là loại kính an toàn đầu tiên được thiết kế - một ứng dụng được dùng rất nhiều trong kính chắn gió, kính bảo vệt mắt và nhiều hơn nữa.
Thử nghiệm kính an toàn.
Theo Quora