Đặng Lê Nguyên Vũ - đã nói là làm
Vũ đến với cà phê, ban đầu chỉ nhằm kiếm tiền, giải thoát bản thân và gia đình khỏi cái nghèo. Nhưng càng gắn bó, càng tìm hiểu cà phê, ông càng thấy nó thiêng liêng và huyền bí. Cà phê chuyên chở một triết lý, một tư tưởng sống chứ không chỉ là thức uống cho dạ dày. Cà phê là biểu hiện sinh động cho tri thức, sức sáng tạo.
Cà phê đối với vị chủ tịch Trung Nguyên mê đắm, thần tình và đáng ngưỡng vọng như một “Nữ thần Đen - Nữ thần Sáng tạo” đến nỗi mà ông ra cả “tuyên ngôn cà phê” và “học thuyết cà phê”, trong đó có phát hiện lớn về sự bất công đối với các nước trồng cà phê. Thậm chí ông còn khởi xướng dự án không thể tin nổi: Thánh địa cà phê toàn cầu.
Cùng với đó, ông lại thao thức với công thức thành công cho tất cả cá nhân và quốc gia. Nỗi thao thức đó càng mãnh liệt trong bối cảnh, điều kiện để Việt Nam hội nhập như hiện nay.
Ông là mẫu người đã nói là làm - không “nói cho đã mồm”. Ông không chấp nhận sống chung với sự manh mún, hay hô khẩu hiệu suông. Ông luôn cổ động cho "một Hoài bão, ba Tinh thần". Trong đó, một Hoài bão là: Việt Nam trở thành một quốc gia đi đầu, chinh phục và ảnh hưởng; còn ba Tinh thần là: Chiến binh, Doanh nhân và Sáng tạo.
Ông xác định 3 mục tiêu phải làm cho bằng được trong đời người: Toàn cầu hóa Trung Nguyên; Đóng góp vào chiến lược quốc gia cho một Việt Nam hùng mạnh; Theo đuổi Học thuyết Cà phê trên phạm vi toàn cầu.
Mới nghe Đặng Lê Nguyên Vũ nói có lẽ nhiều người “phát ngán”, nhưng nghe kỹ thì thấy hay, càng nghe càng thấy có nhiều thứ có lý. Nghiên cứu lịch sử của nước ta và nhiều nước khác, ông nhận ra rằng, điểm chí tử của các dân tộc ít thành công là văn hóa Thái Âm - thiếu niềm tin lớn, không có khát vọng lớn, không có tư tưởng gây ảnh hưởng, không dám tranh tiên đi đầu.
Ông nói, chưa bao giờ thế giới trở nên khó lường như ngày hôm nay với hàng loạt khủng hoảng đan xen toàn cầu về biến đổi khí hậu, kinh tế - tài chính, năng lượng, lương thực, đói nghèo, dịch bệnh, xung đột sắc tộc - tôn giáo, đối đầu chính trị - quân sự, khủng hoảng nhân văn và đạo đức xã hội, hiểm họa khủng bố, vũ khí giết người hàng loạt...
Đây là chỉ dấu của khủng hoảng toàn diện, đan xen và trầm trọng, khủng hoảng về hệ giá trị phát triển, ngay cả đối với các quốc gia thành công nhất. Hơn bao giờ hết, toàn thế giới cần phải Tư Duy Lại, Thiết Kế Lại và Vận Hành Lại. Nhân loại có được nền văn minh như ngày nay là nhờ óc sáng tạo, “Không có sáng tạo, không có lịch sử”.
Theo ông, lịch sử loài người được chia làm 3 thời kỳ chính: Sáng tạo để Thích nghi, Sáng tạo vì Lòng tham và giờ đây phải là Sáng tạo có Trách nhiệm. Sáng tạo vì lòng tham và hãnh tiến đã tàn phá thế giới trong mấy trăm năm gần đây.
Có 4 cấp độ quốc gia thành công: Thống nhất giữa dân tộc với quốc gia; Trở thành quốc gia độc lập - hùng mạnh; Trở thành quốc gia chủ chốt trong nền văn minh; và một nền văn minh dẫn dắt thế giới. Chúng ta đều đang có vấn đề tại 4 cấp độ này. Muốn đạt được các cấp độ đó, chúng ta cần thấu hiểu mình, hiểu bạn bè, hiểu đối tác và hiểu kẻ thù cũng như hiểu xu hướng chủ lưu của thời đại.
Trong đó, quan trọng nhất là ta phải hiểu rõ chân tơ kẽ tóc bản thân mình. Chúng ta có thừa điều kiện để hiện thực hóa. Nhưng muốn làm nên, nhóm nhân lực dẫn dắt Việt thiết yếu cần có cùng khát vọng, tầm nhìn, đồng tâm và quyết tâm cao độ; Tất thảy chúng ta đều phải dốc sức hùng tâm cho các mục tiêu; Chúng ta sẽ thành công nếu lựa chọn đúng chiến lược, có phương pháp đúng, và thực thi thông minh.
Ông cho rằng, nếu là một quốc gia thống nhất thì phải có sự thống nhất giữa quốc gia và dân tộc. Có tinh thần gia tộc và tông tộc thì phải có tinh thần quốc tộc - tức tinh thần quốc dân.
Sở dĩ thế giới đang khủng hoảng bởi chưa thoát khỏi cái bóng tư tưởng kinh tế cực đoan cũ của Adam Smith, Keynes, cho đến học thuyết địa chính trị Mackinder, học thuyết biển Mahan; học thuyết quyền mưu đối đầu của Tôn Tử, Clausewitz, Machiavelli; học thuyết cạnh tranh sinh tồn Darwin, thuyết dân số tiêu cực Malthus cũng như các học thuyết mang tính đối kháng về ý thức hệ và các tôn giáo có vũ trụ quan, nhân sinh quan cũ.
Những tư tưởng hướng về triệt tiêu này tiếp tục là cội rễ để tạo thành các phân cực đe dọa lẫn nhau. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần có niềm tin rằng, toàn thể nhân loại hoàn toàn có thể tạo ra một thế giới hài hòa và cùng phát triển bền vững với những lợi ích mang tính phổ quát và không loại trừ lẫn nhau. Và chìa khóa không gì khác chính là Tinh thần Cà phê thần tình.
Vũ và "Học thuyết Cà phê"
“Học thuyết Cà phê” ra đời với hạt nhân là Tinh thần Cà Phê - Sáng tạo có trách nhiệm. Tinh thần Cà phê phát biểu rằng: Mọi người ai cũng có thể thành công; muốn thành công cần có sáng tạo; cà phê kích xúc sáng tạo; nhưng sáng tạo cần có một số điều kiện nền tảng về văn hóa và chính trị. Từ tinh thần nhân bản đó, có thể nói cà phê là năng lượng của nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, kinh tế bền vững, giúp kiến tạo thế giới mới.
Có gần 3 tỉ người yêu và đam mê cà phê trên toàn cầu, xuyên tôn giáo, văn hóa, địa lý, thể chế chính trị. Đây là một lực lượng sáng tạo hùng hậu, và nếu họ hướng tới sáng tạo có trách nhiệm thì thế giới sẽ vô cùng tốt đẹp.
Ông nói, hiện nay đang là thời điểm giao thoa giữa nguy cơ ngàn năm và cơ hội ngàn năm mà chúng ta cần thay đổi để chộp lấy cơ hội hội nhập.
Một là, toàn bộ thế giới đang rơi vào khủng hoảng chung, và bản chất của cuộc khủng hoảng đó là khủng hoảng tài nguyên thiên nhiên và không gian sinh tồn cho loài người. Hai là, thế giới đang bị chi phối bởi các tư tưởng đối đầu cưc đoan triệt tiêu lẫn nhau.
Ba là, tiếp tục có xung đột, tranh chấp đối với các nguồn lực phát triển. Bốn là, loài người vẫn theo quán tính tư duy cũ của nhị nguyên luận dẫn đến phân tranh. Năm là, vấn đề lớn nhất của loài người hiện nay là khủng hoảng niềm tin. Những mối nguy chung đó đáng báo động ở cấp cao nhất.
Mục tiêu của ông là rõ ràng và liên hoàn: “Đoàn kết dân tộc – Thống nhất ASEAN – Hội tụ thế giới”. Việt Nam có đầy đủ điều kiện để thực thi chiến lược định vị trung tâm. Đây là thời đại mà các thế lực dịch chuyển trọng tâm từ Tây sang Đông, là cơ hội để ta tiếp xúc trọn vẹn với thế giới.
Căn cứ theo thuyết “Chuỗi giá trị” và học thuyết Biên giới mềm, ông cho rằng, những nước nhỏ yếu hay những dân tộc tiêu thụ luôn ở phân khúc thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. “Với những vốn liếng chiến lược dồi dào, chúng ta phải thắng cuộc chiến kinh tế này. Tại sao không!", ông tin tưởng. Mong ước của ông là một Việt Nam hùng mạnh, ảnh hưởng, một Việt Nam có một sứ mạng với thế giới. “Người khác làm được thì ta làm được.
Dân tộc khác làm được thì dân tộc ta làm được. Nước khác làm được thì Việt Nam làm được và còn làm tốt hơn”, ông nói thêm: “Khi cùng nhau, không gì là không thể”.
Nếu là một thân hữu của ông, bạn sẽ thấy ông luôn trằn trọc về “một Việt Nam hùng cường, vĩ đại và ảnh hưởng”. Có thời gian ông lui về trang trại, khóa chặt cửa cả năm ròng, đêm đêm làm bạn với cà phê, nghiền ngẫm một lối đi đặc sắc hơn và thông minh hơn cho đất nước, điều đã lấy đi nhiều năng lượng của ông.
Ông yêu thích tư duy “dựa lưng vào núi, tiến ra biển cả”. Theo ông, tư duy này là đáng ngẫm nghĩ , đây là một tư duy hệ trọng mang tính chất phát hiện. Hàng nghìn năm qua, dân tộc ta đã tư duy khu trú, vọng nội, cát cứ.
Tư duy mở cửa giao thương với thế giới chính là biểu hiện cụ thể nhất của tinh thần chinh phục, khám phá và hướng ngoại cũng như tinh thần trọng thương - điều vắng bóng trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước. Tư duy biển là tư duy thượng tôn thương mại, thượng tôn giao lưu, buôn bán, trao đổi. Tinh thần doanh nhân là chìa khóa của chúng ta. Kinh tế phải là trung tâm của mọi chính sách.
… Nhưng chính những ý tưởng đó dường như đã khiến Đặng Lê Nguyên Vũ trở nên cô độc. Lẽ giản đơn là nhiều người không “cảm” được cái “cá biệt” của vị CEO của Trung Nguyên. Ông cô đơn bởi ông chọn cho mình một lối đi riêng cùng nỗi ưu tư và phương pháp luận không giống ai. Nhưng trong những cơn bão tố búa rìu dư luận, ông vẫn bình thản như… Tinh thần Cà phê.
Dĩ nhiên, ông có những nhược điểm mang tính con người. Nếu bạn là người quá nhạy cảm thì hẳn bạn sẽ khó chịu khi tiếp xúc với ông, có ấn tượng dường như ông quá lạnh lùng. Thậm chí đôi khi ông cực đoạn đến mức kiêu bạt áp đặt cả quan điểm của mình không thèm tính đến phản ứng của người đối diện. Nhưng đó chính là Đặng Lê Nguyên Vũ.
Tôi tiếp xúc với ông ở nhiều góc độ rất đời. Nếu tinh ý bạn sẽ cảm nhận không phải ông là người khô khan mà thực ra ông rất giỏi che giấu cảm xúc.
Theo ông, nếu ai cũng lo cho mỗi bản thân, lo kiếm tiền theo kiểu “vinh thân phì gia” thậm chí còn làm nghèo đất nước thì “khác gì loài cầm thú”? Trong cuộc nói chuyện, đôi khi mắt ông quắc lên dữ dội.
Ánh mắt ấy, cùng với hình tướng và thần thái bạo liệt của ông, khóa chặt và ám ánh bất kỳ đối phương nào. Những lời nói của ông như toát thẳng từ cõi lòng bộc trực của một người đàn ông khẳng khái, không quen nói lời hoa mỹ.
Và, có lẽ khó khăn lớn nhất khi gặp ông chính là phải chia tay ông. Trong chầu cà phê tiễn chân buổi chiều muộn, ông nhấp một ngụm đắng gắt, rít khói thuốc, đăm chiêu phóng tầm mắt về phía đường chân trời, nơi từ trong mù sương hiển lộ ra dãy núi cao nguyên M’drắk hình yên ngựa hùng vĩ cùng một con đại bàng lẻ loi đang dang cánh dũng mãnh, nhìn ngắm thế gian từ trên đỉnh cao vời vợi.
Ông không giấu được vẻ cô đơn buồn bã vì thiếu người sẻ chia.