Trong tuần này, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố Báo cáo Điểm lại, một ấn phẩm bán thường niên đánh giá về tình hình kinh tế Việt Nam, với chủ đề “Trạng thái Bình thường mới ở Việt Nam sẽ ra sao?”.
COVID-19 đã đẩy thế giới vào cuộc suy thoái kinh tế sâu rộng
Trong báo cáo, WB nhìn lại tình hình thế giới trong thời gian gần đây, theo WB, COVID-19 đã đẩy hành tinh của chúng ta vào một cuộc suy thoái sâu rộng
Nền kinh tế toàn cầu đã rơi vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong vài thập kỷ qua. GDP toàn cầu dự kiến suy giảm 5,2% trong năm 2020 do đại dịch COVID-19 và do các biện pháp được tiến hành để kiềm chế dịch bệnh theo thời gian.
Theo ước tính đến nay, trên nửa triệu người đã tử vong do virus corona và 10 triệu người bị lây nhiễm trên toàn cầu - các con số trên vẫn đang tăng lên hàng ngày. Không những cả thế giới phải đối mặt với cuộc suy thoái tồi tệ nhất mà có lẽ hầu hết các quốc gia đều bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tác động của đại dịch.
Ngoại trừ khu vực Đông Á, tất cả các khu vực còn lại đều đưa ra báo cáo tăng trưởng GDP bị âm trong năm 2020. Tương tự, chỉ có 57 trên 191 quốc gia dự kiến có tăng trưởng GDP từ năm 2019 đến năm 2020, thấp hơn con số 171 cách đây một năm.
Nếu đại dịch lần này được từng bước kiểm soát, nền kinh tế thế giới sẽ lại tăng trưởng ở mức bình quân 4% vào năm 2021. Nhưng đến nay chưa ai có thể nói điều gì. Không chỉ các đợt sóng lây nhiễm mới có thể phát sinh do chưa có vác-xin được sử dụng phổ quát và hiệu quả cho virus corona, mà những thay đổi ngoài dự kiến về kinh tế, xã hội và chính trị hoàn toàn có thể phát sinh sau một cú sốc nghiêm trọng như COVID-19.
Nếu lịch sử là bài học cho tương lai, cấu trúc của thế giới trong những năm tới hầu như chắc chắn sẽ khác đi so với những gì ta thấy hiện nay.
Trạng thái bình thường mới tại Việt Nam sẽ như thế nào?
Đến đầu tháng 7 năm 2020, cuộc sống ở Hà Nội dường như đã quay lại bình thường hoặc gần tương tự như trước khi có dịch COVID-19. Thủ đô lại được chứng kiến cảnh đường xá tấp nập, công trình xây dựng ồn ào, các quán trà và café trên phố đầy ắp người. Quang cảnh quen thuộc đang quay lại như cũ rõ ràng nhờ vào chính sách quyết liệt của Chính phủ giúp kiềm chế dịch virus, góp phần tránh tổn thất về con người.
Đến nay, hầu hết các biện pháp giãn cách xã hội đã được gỡ bỏ, khiến cho mọi người thấy rằng nhiều hoạt động trong nước đã được khôi phục. Nhưng nếu nói trạng thái bình thường đã được khôi phục nhanh chóng thì có lẽ chưa thật khách quan.
Một vài chỉ số kinh tế và tài chính vẫn chưa quay lại các mức như trước khi có khủng hoảng, chẳng hạn tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), ở mức 1,8% trong nửa đầu năm 2020, vẫn thấp hơn khoảng 5 điểm phần trăm so với quỹ đạo tăng trưởng trong những năm gần đây. Đại dịch cũng để lại những vết sẹo khó phai, nhất là với những người dân và doanh nghiệp thiếu chuẩn bị nhất cho cú sốc như lần này.
Nhĩn kỹ lại trên đường phố Hà Nội, ta có thể thấy một vài khách sạn và cửa hàng vẫn đóng cửa, một số thì đơn thuần tự biến mất. Báo cáo này đưa ra luận điểm cho rằng Việt Nam không nên tư duy theo hướng trạng thái bình thường sẽ quay lại như cũ, mà nên xác định xem trạng thái bình thường mới sẽ ra sao, khi đại dịch làm thay đổi cách thức mọi người sinh sống, làm việc và giao tiếp trên nhiều góc độ khác nhau.
Trạng thái bình thường mới ở Việt Nam còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng chủ yếu được định hình bởi cách thức Chính phủ quản lý quá trình thoát khỏi đại dịch COVID-19. Vì sẽ phải sống và làm việc trong một thế giới có vô vàn bất định trong nước và trên thế giới trong thời gian tới, quốc gia cần có những động lực tăng trưởng mới, bao gồm cả vai trò mới của chính sách tài khóa.
Đúng là khi sớm thoát ra khỏi quỹ đạo dịch bệnh, Việt Nam có cơ hội đặc thù nhằm nâng tầm dấu ấn của mình trong nền kinh tế thế giới, đồng thời nhằm thúc đẩy nghị trình cải cách để tiến nhanh tới ước vọng trở thành một nền kinh tế thu nhập cao trong thời gian tới.
Nền kinh tế Việt Nam bị tổn thương nhưng vẫn có khả năng chống chịu COVID-19 là cú sốc y tế buộc chính phủ các quốc gia trên thế giới phải đưa ra lựa chọn khó khăn giữa cứu sống nhân mạng hay hạn chế hoạt động kinh tế.
Trong lúc nhiều quốc gia còn do dự chưa đồng thuận nên xử lý theo hướng nào, Việt Nam đã có những phản ứng nhanh và mạnh dạn. Các biện pháp ứng phó sớm - xét nhiệm có mục tiêu, theo dõi lây nhiễm, kết hợp với các chiến dịch truyền thông sáng tạo - cho thấy hiệu quả rất cao. Mặc dù có vị trí nằm gần trung tâm nguồn gốc của đại dịch, nhưng Việt Nam đã chiến thắng số mệnh với tỷ lệ lây nhiễm trong cộng đồng thấp kể từ giữa tháng 4 và đến nay ghi nhận vài ca tử vong.
Nhìn vào tốc độ tăng trưởng 1,8% trong nửa đầu năm 2020, nền kinh tế Việt Nam như vậy là đã bị tổn thương nhưng vẫn thuộc dạng năng động nhất trên thế giới. Khả năng chống chịu về kinh tế có thể được lý giải qua hai giai đoạn. Giai đoạn một từ tháng 2 đến tháng 4, khu vực doanh nghiệp nước ngoài là động lực chính với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (ròng) tiếp tục tăng trưởng ngoạn mục trên 10% một tháng (so cùng kỳ năm trước).
Cũng trong giai đoạn một, khu vực kinh tế trong nước bị suy giảm do gia tăng giãn cách xã hội và hạn chế đi lại, đỉnh điểm là yêu cầu cách ly gần như toàn xã hội trên toàn quốc vào tháng 4. Trong giai đoạn hai từ tháng 5 đến nay, khu vực kinh tế trong nước được phục hồi khi các cấp có thẩm quyền bắt đầu nới lỏng hầu hết các biện pháp hạn chế đi lại - điển hình là sản xuất chế tạo và chế biến tăng đến trên 30% trong hai tháng vừa qua.
Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu giảm đà do sức cầu yếu hơn ở các đối tác thương mại chính của Việt Nam. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài cũng có dấu hiệu yếu đi.
Về tổng thể, mặc dù nền kinh tế tỏ ra có khả năng chống chịu, nhưng nhiều người dân và doanh nghiệp đã cảm nhận được thực tế khốc liệt của đại dịch lần này. Dựa trên một số nguồn thông tin, bao gồm của Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, dữ liệu kinh tế ngành, khảo sát qua điện thoại, kết hợp với sử dụng dữ liệu lớn, WB đúc rút ra bốn thông điệp như sau:
Mặc dù nhiều doanh nghiệp và hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi COVID-19, nhưng hầu hết tác động chỉ mang tính tạm thời và giảm dần theo thời gian.
Doanh nghiệp gia đình (chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam) bị ảnh hưởng nhiều hơn so với người làm công ăn lương nhưng lại thể hiện mức độ linh hoạt cao hơn khi họ phục hồi lại nhanh chóng trong hai tháng qua.
Tác động trong từng ngành và giữa các ngành có sự khác biệt đáng kể, trong đó ngành dịch vụ du lịch và vận tải, các hoạt động chế tạo và chế biến xuất khẩu bị ảnh hưởng nhiều nhất, còn ngành nông nghiệp tương đối được miễn nhiễm.
Tác động của cách ly và nới lỏng các biện pháp hạn chế có tác động khác nhau theo khu vực.
Các tỉnh miền bắc bị các biện pháp giãn cách xã hội ảnh hưởng nhiều nhất, còn khu vực miền trung phục hồi nhanh hơn các vùng miền khác.
Nhận thức được khó khăn tài chính do đại dịch gây ra, Chính phủ đã nhanh chóng áp dụng các công cụ tài khóa và tiền tệ để trợ giúp những người dân và doanh nghiệp có nguy cơ dễ tổn thương nhất, trong đó giãn thuế và hỗ trợ tài chính trực tiếp được triển khai tương đối hiệu quả từ đầu tháng 4.
Phản ứng chính sách của Việt Nam được cho là vừa có tầm nhìn vừa thực dụng. Nhờ tích lũy được lượng ngân quỹ dự trữ đáng kể do quản lý tài khóa cẩn trọng trước khủng hoảng, các cấp có thẩm quyền có thể ứng phó tức thì cả ở cấp trung ương và địa phương mà không phải tăng vay nợ trong nước hay nước ngoài. Tình trạng hoảng loạn không diễn ra.
Để ứng phó với dự báo suy giảm thương mại toàn cầu, các cấp có thẩm quyền cũng phản ứng nhanh bằng cách chỉ đạo giảm chi phí logistics cho xuất khẩu, đồng thời cắt giảm thủ tục hành chính, giảm mức phí và hợp lý hóa thủ tục trong lĩnh vực hải quan và tại các đầu mối vận tải chủ chốt.
Có lẽ còn quá sớm để đánh giá hiệu quả chống COVID-19 của Việt Nam, nhưng lợi ích về y tế có thể được thấy rõ. Thông qua ước tính thống kê về giá trị cuộc sống, thành quả đạt được ước bằng khoảng 15 tỷ USD, nghĩa là cao hơn nhiều so với tổn thất về GDP phát sinh đến thời điểm này hoặc thậm chí theo dự báo cho cả năm 2020. Thành công của chiến lược đó còn được khẳng định bằng sự hài lòng ở mức độ cao của người dân Việt Nam với các hành động của Chính phủ, với trên 90% người trả lời rằng họ hài lòng trong một khảo sát gần đây.