Dù được coi là bậc thầy trong giải phẫu học nhưng danh tiếng của bác sĩ Hunter luôn đi kèm với tai tiếng, đặc biệt là về các giao dịch của ông với những kẻ trộm mộ.
John Hunter (1728 - 1793) là bác sĩ phẫu thuật, nhà nghiên cứu khoa học xuất sắc người Scotland. Ông là bác sĩ ủng hộ mạnh mẽ cho các phương pháp nghiên cứu y học, khoa học thực nghiệm. Bác sĩ John đã dạy dỗ và cộng tác cùng học trò Edward Jenner - cha đẻ vaccine đậu mùa.
John Hunter là con út trong một gia đình 10 anh chị em ở Scotland. Ông theo nghiệp y một phần vì 6 anh chị em trong nhà đều chết trẻ vì bệnh tật. Vào năm 1748, Hunter 20 tuổi chuyển đến London làm trợ lý giải phẫu cho anh trai William, một bác sĩ sản khoa danh tiếng. Việc tiếp xúc với nhiều thi thể trong quá trình làm việc đã thổi bùng lên niềm đam mê, nỗi ám ảnh của ông.
Từ năm 1760, John Hunter có 3 năm phục vụ với vai trò bác sĩ quân y ở Bồ Đào Nha, Pháp. Sau khi trở về nước, đến năm 1764, ông đã xây dựng trường dạy giải phẫu ở London.
Ông được tôn sùng vì những khám phá trong y học, nhưng đồng thời cũng bị chính đồng nghiệp và người dân ở Anh quốc ghê sợ vì niềm đam mê bất thường đối với việc giải phẫu thi thể người. Bác sĩ Hunter chính là người đã biến hoạt động trộm mộ ở Anh quốc trở thành một "ngành công nghiệp" lớn với sự góp sức của chính ông và số lượng thi thể khổng lồ mà ông mua từ vô số băng trộm.
Vị bác sĩ biến nghề trộm mộ "lên ngôi"
Vào đầu những năm 1700, việc mua bán thi thể người chết để sử dụng trong nghiên cứu y học là một trong những chủ đề gây tranh cãi kịch kiệt của giới y khoa Anh. Thậm chí, nó đã trở thành chủ đề nhạy cảm được ngầm thống nhất rằng không nên đề cập đến. Nguồn thi thể phục vụ cho nghiên cứu rất khan hiếm, thường đến từ những kẻ trộm mộ.
Nạn trộm mộ lúc bấy giờ cũng chưa phổ biến, chỉ một số ít người dân khó khăn hoặc những kẻ lưu manh cần tiền mới đi đào trộm mộ của người khác.
Chân dung bác sĩ John Hunter
Về sau, khi sự bùng nổ trong việc tuyển sinh ở các trường y và điển hình là trường dạy giải phẫu của bác sĩ John Hunter đã càng khiến cho nguồn thi thể trở nên khan hiếm, đồng thời đẩy giá mua bán xác người tăng vọt.
Từ khoảng 2 bảng Anh vào những năm 1780 lên tới 16 bảng Anh (tương đương với gần 1.000 USD ngày nay) vào những năm 1810. Mức giá này ngang với thu nhập trung bình của một người lao động phổ thông ở Anh trong nhiều năm.
Những kẻ trộm mộ thường làm việc theo nhóm. Các băng nhóm thiếu kinh nghiệm thường săn xác người từ các ngôi mộ tập thể - những huyệt lớn chờ được lấp đầy bởi thi thể người bệnh. Các nhóm tinh vi hơn thì có nhiều thủ đoạn nhằm vào mộ cá nhân. Nhiều nhóm còn thuê nữ gián điệp làm nhiệm vụ trà trộn gần các bệnh viện để chờ người chết, sau đó ghi lại vị trí chôn và thăm dò các biện pháp bảo vệ mộ. Nếu nghĩa trang có người trông giữ, họ sẽ tiến hành mua chuộc hoặc chuốc say người này khi hành động.
Đến đêm, những tên trộm chuyên nghiệp sẽ tính toán thời điểm trăng lên thích hợp nhất, vô hiệu hóa bẫy bảo vệ do gia đình người mất sắp đặt và đào bới bằng những chiếc xẻng bằng gỗ nhẹ. Các băng trộm rất hiếm khi phá hủy quan tài, thay vào đó, họ chỉ đào một phần rồi dùng xà beng bật nắp hòm.
Sau khi lấy được thi thể, họ thường rạch nát mặt "nạn nhân" để không bị nhận dạng. Vải liệm và bất kỳ đồ trang sức được chôn kèm theo sẽ bị bỏ lại do nếu bị bắt, việc trộm tài sản sẽ khiến tội nghiêm trọng hơn. Các băng nhóm chuyên nghiệp có thể "dọn sạch" một ngôi mộ trong 15 phút và khôi phục nguyên trạng bên ngoài của mộ phần. Do đó, có không hiếm những phi vụ trắng tay do đào phải phần mộ đã bị nhóm khác ghé thăm trước.
Sau khi trộm thành công là giai đoạn định giá. Các cơ thể trưởng thành có chung một khung giá, dao động theo thời gian. Cơ thể trẻ em được định giá trên mỗi cm. Đối với những "mẫu vật" quý hiếm như phụ nữ mang thai, giá có thể lên tới 20 bảng Anh (tương đương khoảng 2.500 USD ngày nay). Một tên trộm mộ có năng suất có thể kiếm tới 100 bảng Anh chỉ qua một đêm.
Các nhà giải phẫu học trở thành khách quen của những tên trộm mộ
Mặc dù thu nhập khủng nhưng trộm mộ cũng là một ngành kinh doanh nguy hiểm. Nếu bị bắt, tên trộm có thể phải ngồi tù hoặc bị đày sang các thuộc địa của Anh. Không chỉ vậy, họ sẽ bị đám đông làm nhục, đánh đập, quất roi bằng dây kim loại, thậm chí là chôn sống ngay trong ngôi mộ vừa đào được.
Ngoài ra còn có sự cạnh tranh giữa các băng nhóm. Nếu khách quen - thường là các nhà giải phẫu mua xác chết từ một nhóm đối thủ, họ có thể đột nhập vào phòng thí nghiệm của khách hàng và phá hủy xác chết.
Về phía bác sĩ Hunter, niềm đam mê tới mức ám ảnh đối với thi thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân. Đầu tiên, ông là người yêu thích giải phẫu học. Ông không chỉ mổ xẻ con người mà còn mổ xẻ hàng nghìn loài động vật, trong đó có những trường hợp phức tạp trên một cơ quan siêu nhỏ như tinh hoàn của chim sẻ hay nhau thai khỉ.
Thứ hai, ông xem phẫu thuật là con đường để cải cách y tế. Y học thời đó còn sơ sài, ông mong muốn hiện đại hóa y học, coi phẫu thuật là nền tảng của cải cách, vì để chữa bệnh, bác sĩ cần có kiến thức chuyên sâu về cơ thể con người.
Do đó, bác sĩ Hunter cần nhiều, nhiều hơn nữa những thi thể để thực hiện lý tưởng của mình. Nhà của ông thậm chí còn có cửa sau dành riêng để đón những kẻ trộm mộ, những căn phòng kế đó luôn bốc ra mùi xác chết.
Bằng những phương pháp "không chính thống", bác sĩ John Hunter đã khám phá ra hàng chục kiến thức mới về giải phẫu học. Ông đã giám sát ca thụ tinh nhân tạo đầu tiên ở người và đi tiên phong trong việc sử dụng điện để kích tim. Ông cũng là người sáng tạo ra biểu đồ về sự phát triển của trẻ sơ sinh trong tử cung và phân chia cách phân loại răng hiện đại. Nhờ những thành tựu đó, John Hunter được bầu vào hiệp hội Hoàng gia Anh năm 1767.
Nhưng danh tiếng của ông luôn đi kèm với tai tiếng, đặc biệt là về các giao dịch của ông với những kẻ trộm mộ. Thậm chí có lúc ông còn tự mình trộm thi thể - hành động bị hầu hết các nhà giải phẫu học thời đó coi thường vì họ coi kẻ trộm mộ là "những tên côn đồ hèn hạ" .
Bộ sưu tập "Những nỗi đau khổ của con người"
Trong hơn 10 năm làm việc cho anh trai của mình, bác sĩ John Hunter đã mổ xẻ 2.000 thi thể, gần như tất cả đều bị trộm bởi những kẻ trộm mộ, đôi khi là do chính ông ta. Trong số đó, vụ việc đáng xấu hổ nhất là về "gã khổng lồ" người Ireland Charles Byrne.
Theo ghi chép, Byrne cao gần 2,5m. Để kiếm sống, anh tham gia các hội chợ khắp Ireland và Anh. Thời điểm bác sĩ John Hunter nhìn thấy Byrne, ông lập tức bị ám ảnh bởi ý tưởng mổ xẻ người khổng lồ.
Người khổng lồ Charles Byrne được miêu tả cao tới 2,5m
Vị bác sĩ đã tiếp cận Byrne và đề nghị mua lại cơ thể của người khổng lồ sau khi anh ta chết. Ông cho rằng việc được giải phẫu bởi chính ông, nhà giải phẫu hàng đầu thế giới, là một vinh dự nhưng Byrne đã rất tức giận và từ chối một cách quyết liệt. Gã khổng lồ thậm chí còn hẹn bạn bè của mình và yêu cầu họ thề với Chúa rằng họ sẽ giúp vứt xác anh ta xuống biển sau khi chết để John Hunter không bao giờ đạt được mục đích của mình.
Tháng 6/1783, Charles Byrne tự tử bằng cách uống rượu vì không thể chịu đựng được căn bệnh viêm khớp hành hạ.
Bạn bè của Byrne đã phô bày cơ thể của anh ta để kiếm tiền. Sau 4 ngày, họ mới bắt đầu cuộc hành trình dài 75 dặm qua Canterbury ra biển để hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của người khổng lồ mà không hay biết xác bạn mình đã bị đánh tráo.
Khi hay tin về cái chết của Byrne, bác sĩ Hunter đã hối lộ một thành viên trong nhóm đưa tiễn thi thể với giá 500 bảng Anh (tương đương với 50.000 USD ngày nay) để giúp ông trộm xác. Những người bạn của Byrne đã đưa theo một chiếc quan tài nhồi đầy đá, còn thi thể anh chàng khổng lồ tội nghiệp bị đưa đến phòng thí nghiệm của John Hunter ở London.
Vị bác sĩ đam mê giải phẫu không mổ xẻ Byrne mà đun thi thể của anh lên trong một chiếc thùng đồng lớn, vớt hết lớp mỡ bị tách ra và giữ lại bộ xương.
Charles Byrne, người thà bỏ mình giữa biển còn hơn bị mổ xẻ, cuối cùng trở thành một bộ xương trưng bày trong bảo tàng của bác sĩ Hunter ở London. Bảo tàng được gọi là "bộ sưu tập của Hunter về những nỗi đau khổ của con người". Đến tận ngày nay, bộ xương vẫn đang bị trưng bày trái với mong muốn của khổ chủ.
Bệnh nhân ung thư đầu tiên thế giới khiến bác sĩ bị hàm oan suốt 200 năm
Năm 1786, một người đàn ông tới gặp bác sĩ Hunter tại Bệnh viện St George với phần dưới đùi sưng cứng. "Dường như xương dày lên. Khi khám, tôi phát hiện một loại chất bao quanh xương đùi dưới bệnh nhân, nó giống như khối u sinh ra từ chính xương", vị bác sĩ ngày ấy mô tả trong mẫu bệnh phẩm của người bệnh được lưu lại đến nay.
Khi ấy, ông quyết định đoạn chi bệnh nhân. 4 tuần trôi qua, bệnh nhân kia dần dần hồi phục nhưng sau đó lại xuất hiện triệu chứng khó thở với phần thịt hoại tử. 7 tuần sau ca phẫu thuật, bệnh nhân tử vong. Khám nghiệm tử thi cho thấy khối u từ xương đã lan tới phổi, màng tim và xương sườn.
Bộ xương của người khổng lồ được trưng bày trong bảo tàng của bác sĩ Hunter ở London
Thời điểm xảy ra câu chuyện trên, thế giới vẫn chưa hề biết đến ung thư. Do đó chẩn đoán của bác sĩ Hunter không được giới chuyên môn tin tưởng và nhanh chóng chìm vào quên lãng. Vị bác sĩ được cho là đã chẩn đoán và điều trị sai bệnh tình của bệnh nhân này.
Mãi về sau, bác sĩ Christina Messiou từ Bệnh viện Royal Marsde nghiên cứu lại mẫu bệnh phẩm được bác sĩ John Hunter lưu lại. Cùng với đội ngũ chuyên gia tại Bệnh viện Royal Marsden, bác sĩ Christina sử dụng kỹ thuật tiên tiến quét toàn bộ mẫu vật và công nhận phán đoán của vị thầy thuốc năm xưa hoàn toàn chính xác. Thêm vào đó, cách Hunter chăm sóc bệnh nhân cũng không khác nhiều so với nguyên tắc y học hiện đại.
"Chỉ cần nhìn vào mẫu vật, tôi nghĩ ngay đến chẩn đoán u xương ác tính. Tài liệu bác sĩ John Hunter để lại phù hợp một cách đáng kinh ngạc với hiểu biết ngày nay. Khối lượng xương mới hình thành lớn cùng sự xuất hiện của khối u chính là đặc trưng của u xương ác tính", bác sĩ Christina nói.
Viết trên Tạp chí Y học Anh, nhóm bác sĩ gửi lời xin lỗi vì đã phân tích chậm trễ di sản quan trọng từ 2 thế kỷ trước với lý do cơ sở y tế này đến năm 1851 mới được thành lập.
Nguồn: Scienceinfo, Ghanastar, BBC