Trong vòng chưa đầy một năm, Trung Quốc tạo ra hơn 10km2 đất mới ở bảy địa điểm khác nhau trên cả quần đảo mà tổng diện tích đất ban đầu chỉ có khoảng 4km2.
Bãi Chữ Thập, chìm ở thủy triều cao khi bị Trung Quốc chiếm đóng vào năm 1988, giờ đã là một hòn đảo rộng 2,74km2, đủ lớn để chứa một đường băng dài 3.100m và một bến cảng rộng 63ha.
Bãi Chữ Thập đã lớn gấp gần 6 lần đảo tự nhiên lớn nhất ở Trường Sa là Ba Bình, nhưng vẫn nhỏ hơn hai hòn đảo nhân tạo khác. Vào tháng 6-2015, Trung Quốc đã tạo được 4km2 đất tại Xubi cùng 5,6km2 đất tại Vành Khăn và những con số này vẫn đang tiếp tục tăng.
Trung Quốc muốn chơi trò gì?
Kết cục của cuộc chơi xây dựng đảo là gì? Vai trò của các đảo nhân tạo này trong thời kỳ chiến tranh và ở phương diện Luật biển rất đáng hoài nghi.
Những hòn đảo này quá nhỏ và quá cô lập để có thể chống đỡ các cuộc tấn công lớn, chúng có thể dễ dàng trở thành gánh nặng trong thời gian chiến tranh.
Chỉ là đảo nhân tạo, những thực thể địa lý này cũng không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Vậy tại sao Trung Quốc lại đầu tư nguồn lực khổng lồ vào đó?
Bắc Kinh có vẻ đang theo đuổi một chiến lược dựa trên những nguyên tắc rất khác với tư duy thông thường. Triết lý đằng sau chiến lược này có thể được tìm thấy trong binh pháp của Tôn Tử: “Bất chiến tự nhiên thành”.
Mục tiêu tổng thể là kiểm soát Biển Đông nhưng không phải thông qua các trận đánh lớn. Thay vào đó, Trung Quốc muốn đạt được mục tiêu bằng việc từng bước thay đổi thực địa, tạo dựng một sân chơi có lợi cho mình, làm thay đổi về mặt tâm lý những tính toán chiến lược của các quốc gia khác.
Có ba yếu tố bắt buộc cần có để theo đuổi chiến lược bành trướng lắt léo từng phần này và sáu thập kỷ can dự Biển Đông của Bắc Kinh tuân theo những yếu tố này chặt chẽ (giả thiết này được trình bày lần đầu tiên vào năm 2014 và dự báo chính xác các chương trình xây dựng của Trung Quốc ở bãi Xubi và Vành Khăn).
Yếu tố bắt buộc đầu tiên là tránh tối đa những trận đánh lớn, có thể tạo ra những đụng độ nhưng chỉ là để khai thác một tình huống có lợi đang có sẵn.
Yếu tố này từng là trụ cột trong kế hoạch Trung Quốc chiếm Hoàng Sa từ tay Nam Việt Nam vào năm 1974 và đụng độ với Việt Nam ở quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Yếu tố bắt buộc thứ nhì là kiểm soát các vị trí chiến lược trong khu vực: nếu những vị trí này chưa có ai chiếm hữu, chúng cần phải được chiếm âm thầm, lén lút nếu có thể và bằng một cuộc xung đột có giới hạn nếu cần thiết.
Có thể dễ thấy yếu tố này nhất khi Trung Quốc chiếm 7 đảo ở Trường Sa và bãi cạn Scarborough vào năm 2012.
Yếu tố bắt buộc thứ ba là phát triển những vị trí này thành các trạm kiểm soát mạnh, trung tâm hậu cần vững chắc và các căn cứ triển khai sức mạnh quân sự hiệu quả. Đây chính xác là những gì Trung Quốc hiện đang làm ở Biển Đông.
Những hoạt động này nhằm phục vụ mục tiêu kép là thiết lập uy thế và chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nhờ ở những vị trí chiến lược và có tác dụng hỗ trợ hậu cần, các đảo trong tay Trung Quốc sẽ là những căn cứ vững chắc để từ đó vô số tàu thuyền đánh cá, tàu thực thi pháp luật, tàu chiến và máy bay có người lái hoặc không người lái tỏa ra thống trị bầu trời và vùng biển của Biển Đông.
Các vị trí kiểm soát then chốt bao gồm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, bãi Chữ Thập, Xubi và Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough ở phía đông bắc Biển Đông.
Đảo Phú Lâm, bãi Chữ Thập, Vành Khăn và bãi cạn Scarborough sẽ tạo thành một cụm bốn điểm mà từ đó, với bán kính 250 hải lý, có thể theo dõi chặt chẽ toàn bộ khu vực chính của Biển Đông.
Tại quần đảo Trường Sa, Xubi, Vành Khăn và Chữ Thập tạo ra một tam giác hoàn hảo bao phủ toàn bộ quần đảo.
Trên đảo Phú Lâm, Trung Quốc gần đây đã nâng cấp một đường băng dài 3.000m và một cảng nước sâu dài 1.000m.
Đường băng này có khả năng đón nhận ít nhất 8 máy bay thế hệ thứ tư như máy bay chiến đấu SU-30MKK và máy bay ném bom JH-7, trong khi các bến cảng có thể tiếp nhận những tàu có trọng tải từ 5.000 tấn trở lên.
Một đường băng và một cảng có kích cỡ tương tự đã được xây dựng tại bãi Chữ Thập. Hình dạng các đảo nhân tạo đang được hình thành ở Xubi và Vành Khăn gợi ý rằng ở đây rồi cũng sẽ có những đường băng và một hải cảng với kích thước tương tự.
Mặc dù Bắc Kinh hiện chưa tiến hành xây dựng quy mô lớn ở bãi cạn Scarborough, sẽ không ngạc nhiên nếu như trong tương lai cũng có một đường băng và một cảng nước sâu tại đây.
Các khu vực đã được mở rộng thông qua lấn biển sẽ cho phép Trung Quốc đưa tới các tiền đồn những trang thiết bị quân sự quan trọng cũng như các thiết bị lưỡng dụng cho cả quân sự và dân sự.
Bốn tiền đồn Trung Quốc: Châu Viên, Gạc Ma, Gaven và Tư Nghĩa giờ đã có kích thước lần lượt là 23,1ha, 10,9ha, 13,6ha và 7,6ha.
Trung Quốc sẽ đặt các trạm rađa, trạm phát điện và nước cũng như các kho tàng, bến bãi và cơ sở hạ tầng dịch vụ trên những đảo họ đang chiếm.
Các trang thiết bị ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ có đủ năng lực hỗ trợ hàng ngàn tàu cá và hàng trăm tàu tuần tra, tàu chiến và máy bay hoạt động ở những vùng biển và vùng trời cách xa bờ biển Trung Quốc hàng trăm dặm.
Trung Quốc cũng sẽ đưa hàng ngàn dân, nhân viên quân sự và dân sự tới cư ngụ ở đây. Cùng với vài hòn đảo đã được mở rộng ở Hoàng Sa và bảy đảo nhân tạo ở Trường Sa đóng vai trò như là những điểm dừng chân và tiếp tế nhiên liệu, Trung Quốc có thể triển khai hàng ngàn tàu cá và tàu thực thi pháp luật để đẩy người Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia ra khỏi vùng biển mà Bắc Kinh coi là của riêng mình.
Trung Quốc có thể không tấn công những thực thể địa lý mà các quốc gia khác đang chiếm đóng, nhưng họ sẽ tăng cường nỗ lực bí mật kiểm soát những thực thể địa lý chưa có người ở những vị trí chiến lược.
Bãi Én Đất và Đá Ba Đầu ở các cụm đảo trung tâm cũng như một vài thực thể địa lý ở phần phía đông quần đảo Trường Sa gần Philippines sẽ tiếp tục là mục tiêu của những nỗ lực này.
Trung Quốc có thể sẽ không chính thức tuyên bố một khu vực nhận dạng phòng không ở Biển Đông, vì một hành động như vậy có thể gây ra một cuộc khủng hoảng lớn và khiến nhiều quốc gia Đông Nam Á chống lại Trung Quốc.
Nhưng Bắc Kinh sẽ áp đặt một số khu vực phòng không nhỏ ở những vùng trời xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc cũng sẽ khẳng định âm thầm rằng vùng trời bên trong “đường lưỡi bò” thuộc về họ.
Với cơ sở vật chất áp đảo trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc sẽ thỉnh thoảng tuyên bố một số vùng an ninh, vùng đánh cá và vùng bảo vệ môi trường ở Biển Đông.
Mặc dù những vùng này có thể không phù hợp với luật pháp quốc tế, Trung Quốc sẽ không chịu đưa tranh cãi ra các tòa án quốc tế.
Liệu Trung Quốc có thể đạt được ưu thế không quân và hải quân ở Biển Đông không? Như đã đề cập ở trên, các sân bay và bến cảng ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là quá cách biệt và lộ liễu để có thể chống đỡ những cuộc tấn công lớn trong thời chiến.
Liêu Ninh, tàu sân bay duy nhất hiện nay của Trung Quốc, không phải là đối thủ của bất kỳ tàu sân bay nào trong hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ.
Mặc dù tàu Liêu Ninh sẽ được trang bị 30 máy bay chiến đấu đa chức năng SU-33 và nhiều máy bay trực thăng tác chiến chống tàu ngầm, nhưng một tàu sân bay lớp Nimitz của Mỹ thôi cũng có năng lực gấp hai lần.
Nhưng mục tiêu của Bắc Kinh dường như là muốn chiếm ưu thế trên không và trên biển vào những lúc không có sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ.
Cách tiếp cận của Trung Quốc pha trộn các yếu tố ép buộc với các yếu tố hợp tác, sử dụng sự hợp tác để thu hút và bẫy đối phương vào việc bị ép buộc.
Trung Quốc có thể cung cấp các cơ sở của họ trên đảo nhân tạo cho các lợi ích chung trong khu vực. Tháng 5-2015, đô đốc Ngô Thắng Lợi, tư lệnh hải quân Trung Quốc, nói với đô đốc Jonathan Greenert, tư
lệnh hải quân Mỹ, là các cơ sở trên đảo nhân tạo của Trung Quốc có thể được sử dụng cho những hoạt động cứu nạn và cứu trợ thiên tai.
Mặc dù Hoa Kỳ đã từ chối đề nghị này, Trung Quốc chắc chắn sẽ sử dụng những thực thể địa lý còn đang tranh chấp này như bàn đạp cho các hoạt động “hợp tác” nhằm gây sự chú ý cao và lôi kéo các quốc gia khác trong khu vực.
Chiến lược “bành trướng lắt léo”
Trung Quốc có thể sẽ không cản trở các tuyến thương mại trên không và trên biển ở Biển Đông, nhưng chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu như Trung Quốc thỉnh thoảng chặn một số tàu thuyền và máy bay, cả dân sự lẫn quân sự, của những quốc gia phản đối những nỗ lực bá quyền khu vực của họ.
Những hành vi đó được thiết kế để tạo ra những hiệu ứng về tâm lý hơn là thực tế.
Các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông phù hợp với một chiến lược lớn hơn và lâu dài, mà nguyên lý trung tâm là giành quyền kiểm soát khu vực có vị trí chiến lược then chốt này theo những cách có thể ngăn chặn các nước khác đáp trả tương tự.
Chiến lược này lại là một phần của một nỗ lực lớn hơn để đạt được “Giấc mơ Trung Quốc”, để khôi phục vị trí mà Trung Quốc tự cho là chỗ đứng xứng đáng của họ, tức là ở trên đầu các quốc gia khác.
Số phận của những quốc gia trỗi dậy hiếu chiến trong quá khứ và sự dễ bị tổn thương của các tuyến đường thương mại của Trung Quốc cho thấy rằng chiến tranh không phải là cách để Trung Quốc đạt được tham vọng này.
Được trang bị truyền thống chiến lược ưa chuộng cách tiếp cận gián tiếp, Trung Quốc đã lựa chọn một chiến lược bành trướng lắt léo dần dần để tìm cách định hình sân chơi hơn là trực tiếp tấn công đối thủ.
Đe dọa là một yếu tố chính của chiến lược này, nhưng là kết quả của sự áp đảo hoặc trừng phạt mạnh tay có chọn lọc chứ không phải là tấn công bừa bãi.
Nếu các đối thủ của Trung Quốc không có đối sách bẻ gãy chiến lược này, Trung Quốc sẽ nổi lên là chúa tể của Biển Đông, ít nhất trong nhận thức của hầu hết các nước trong khu vực.
Từ đây sẽ chỉ còn vài bước để vươn tới vị trí bá quyền khu vực và toàn cầu. Với thực tế là huyết mạch của nền kinh tế châu Á chạy qua Biển Đông và châu Á đã trở thành tâm điểm của kinh tế thế giới, ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị châu Á và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới.■
Biên dịch: Huệ Việt
(Dự án Đại sự ký Biển Đông)
Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu an ninh châu Á - Thái Bình Dương (Honolulu, Mỹ), chuyên gia trong lĩnh vực an ninh châu Á, Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc.
Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu, phân tích các vấn đề chính sách, chiến lược Biển Đông và quan hệ quốc tế trên các chuyên san như Asian Survey, The Diplomat, The National Interest, và là đồng tác giả của nhiều cuốn sách cùng lĩnh vực.