Ra đời để cạnh tranh với AK-47
Nếu như AK-47 là đại diện tiêu biểu cho đường lối phát triển vũ khí cá nhân của Liên Xô thì M16 lại là sản phẩm đặc trưng phong cách Mỹ. Nói đến M16 là cả một câu chuyện dài hơi của người Mỹ trong việc phát triển một súng trường tiến công hiệu quả như AK-47.
Mỹ tỏ ra khá chậm chân trong lĩnh vực súng trường tiến công so với Liên Xô. Khi AK-47 được chấp nhận đưa vào trang bị với vai trò vũ khí cá nhân tiêu chuẩn của Hồng quân vào năm 1949 thì lúc đó Mỹ vẫn còn loay hoay với khẩu súng trường M14.
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ tập trung khá nhiều vào các vũ khí hạng nặng trong kế hoạch phòng ngự từ xa và bành trướng của họ. Mặt khác, lúc đó người Mỹ vẫn hài lòng với khẩu M1 Garand.
M14 được phát triển trên cơ sở M1, đây là mẫu súng trường bán động có khả năng chọn chế độ bắn. Nó được chấp nhận với vai trò súng trường tiêu chuẩn cho quân đội Mỹ từ năm 1959.
Mặc dù M14 có uy lực khá tốt với cỡ đạn 7,62 x 51 mm, tuy nhiên đây không phải là một mẫu súng thành công. Trọng lượng của súng khá nặng lên tới 5,2 kg, dài và rất khó xoay xở.
M14 thể hiện tốt vai trò của súng trường bắn tỉa, súng trường chiến đấu chứ không phải là một súng trường tiến công đúng nghĩa. Các chương trình nghiên cứu thực địa cho thấy phần lớn binh lính Mỹ tỏ ra không hài lòng với M14.
Do đó quân đội Mỹ cần một mẫu súng trọng lượng nhẹ có khả năng chiến đấu tốt với vai trò súng trường tiến công cá nhân. Bên cạnh đó sự ra đời của AK-47 đã thúc đẩy chương trình thay thế M14.
Dẫn đầu chương trình thay thế M14 là nhà thiết kế Eugene Stoner của Công ty Armalite với mẫu AR-15, sự phát triển của AR-15 được tiến hành vào khoảng năm 1956.
AR-15 là một súng trường bán tự động hoạt động theo nguyên tắc trích khí trực tiếp. Súng sử dụng hộp tiếp đạn 5,56 x 45 mm (hộp tiếp đạn này về sau đã trở thành tiêu chuẩn của NATO cho súng trường cá nhân).
Tháng 02/1958, Hội đồng bộ binh quân đội Mỹ đã tiến hành đánh giá AR-15 với M14 tại trung tâm huấn luyện Fort Benning, bang Georgia. Các thử nghiệm cho thấy, AR-15 là một vũ khí tiềm năng để thay thế cho M14, nó bắt đầu được đưa vào sản xuất từ năm 1959.
Tuy nhiên sau đó vì lý do tài chính, Armalite đã bán thiết kế của mình cho hãng Colt vào năm 1959. AR-15 chính thức được chấp nhận bởi Không quân Mỹ vào năm 1961.
Quá trình đánh giá trên chiến trường
Năm 1962 khoảng 1.000 khẩu AR-15 được đưa đến chiến trường Việt Nam để tiến hành đánh giá.
Các cố vấn Mỹ tại chiến trường Việt Nam đã nộp những bản báo cáo khống ca ngợi AR-15 một cách hết sức hào phóng. Chỉ có những người trực tiếp sử dụng mới có một đánh giá đầy đủ về loại súng trường này.
AR-15 được thử nghiệm đầu tiên trên chiến trường Việt Nam
Thời điểm đó, tại Lầu Năm Góc tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau, một ủng hộ AR-15 và một ủng hộ M14. Ngay cả Tổng thống John F. Kennedy cũng bày tỏ sự quan tâm đến vấn đề này.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara đã ra lệnh cho Bộ trưởng Lục quân Cyrus Vance tiến hành đánh giá M14, AR-15 và AK-47.
Báo cáo thử nghiệm nói rằng M14 phù hợp với quân đội, tuy nhiên lúc đó Cyrus Vance đã thắc mắc tính khách quan của báo cáo và yêu cầu Tổng thanh tra quân đội tiến hành đánh giá lại. Kết quả kiểm tra lại cho thấy M14 được ưu ái hơn.
Tháng 01/1963, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara ra lệnh ngưng sản xuất M14 và chấp nhận AR-15.
Hãng Colt đã tiến hành sửa đổi AR-15 và súng được thông qua với tên gọi M16. Mặc dù M16 đã được báo cáo có những khuyết điểm cần phải khắc phục nhưng nó vẫn được chấp nhận đưa vào trang bị.
Từ đó về sau, M16 và các biến thể cải tiến của nó trở thành súng trường tiến công tiêu chuẩn của quân đội Mỹ. Biến thể đầu của M16 sử dụng hộp tiếp đạn 20 viên, các biến thể về sau sử dụng hộp tiếp đạn cong 30 viên STANAG chuẩn NATO.