Đây là loại tàu ngầm diesel-điện cỡ nhỏ với tính năng khá độc đáo, được dùng để bắn phá bờ biển kẻ thù, tuy nhiên vai trò của nó đã bị thay đổi trước khi thiết kế chi tiết bắt đầu.
Ý tưởng mới là các tàu ngầm lớp M này có thể tấn công tàu buôn bằng pháo trong khi đang lặn. Ngoài ra nó sẽ trồi lên mặt nước và bắn pháo chứ không sử dụng ngư lôi, vì tại thời điểm đó ngư lôi bị coi là không hiệu quả khi chống lại tàu thuyền di chuyển ở khoảng cách hơn 900 m.
Lớp tàu ngầm M được vũ trang bằng một khẩu pháo 12-inch gắn trong tháp pháo phía trước tháp quan sát. Khẩu pháo trên có tầm bắn tương đối ngắn do chỉ trang bị kính ngắm thẳng đơn giản.
Những khẩu pháo 12-inch này là Mark IX, lấy ra từ các thiết giáp hạm lớp Formidable đã lỗi thời vào cuối năm 1919. Việc lắp trong tháp giúp pháo có góc tà -5o - +20o và góc phương vị +15o.
Mô hình pháo 12-inch lắp trên tàu ngầm lớp M
Thực tế cho thấy khái niệm này không thành công và chỉ có 3 trong số 4 tàu lớp M được hoàn thành vào giai đoạn 1917 - 1918. Tàu M1 và M2 có 4 ống phóng ngư lôi 18-inch, còn M3 và M4 mang 4 ống phóng ngư lôi 21-inch.
Do bị bắt buộc phải hạn chế vũ khí trên tàu ngầm theo quyết định của Hội nghị Hàng hải Washington năm 1922, M2 và M3 đã loại bỏ khẩu pháo 12-inch. Sau đó M2 được chuyển đổi thành tàu ngầm hàng không mẫu hạm cỡ nhỏ, còn M3 hoán cải thành tàu rải thủy lôi.
Những tàu ngầm thuộc lớp M:
Tàu ngầm M1
M1 là chiếc duy nhất được đưa vào biên chế Hải quân Anh trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng nó không tham chiến. Các cuộc thử nghiệm trên biển của M1 do thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm Max Horton chỉ huy, sau khi ông trở về từ vùng Baltic.
Tàu ngầm M1 bị đắm trong lúc tập luyện tại biển English Channel gần Start Point ở Devon vào ngày 12/11/1925, sau khi va chạm với tàu chở than SS Vidar của Thụy Điển, tất cả thủy thủ đều thiệt mạng và nằm lại vĩnh viễn dưới đại dương.
Tàu M1 bắn pháo 12-inch trong một lần thử nghiệm
Tàu ngầm hàng không mẫu hạm cỡ nhỏ M2
Tàu ngầm M2
M2 được chuyển đổi thành tàu ngầm hàng không mẫu hạm vào năm 1925, thay đổi lớn nhất là nhà chứa máy bay thế chỗ tháp pháo, nó bị đắm ở bãi biển Chesil vào ngày 26/1/1932.
Người ta cho rằng nguyên nhân dẫn tới thảm họa là do cánh cửa nhà chứa máy bay bị mở khi tàu còn ở dưới nước, khiến toàn bộ 60 thủy thủ thiệt mạng. Chiếc tàu ngầm được tìm thấy hôm 3/2/1932, 8 ngày sau khi bị đắm.
Ernest Cox, chuyên gia cứu hộ đã giải cứu các thiết giáp hạm của Đức tại Scapa Flow được thuê để cứu vãn M2. Trong hoạt động kéo dài gần một năm và 1.500 lần lặn, đến ngày 8/12/1932, M2 đã trồi lên mặt nước khoảng 6 m trước khi một cơn gió mạnh đến, khiến nó trở về lại nơi an nghỉ cuối cùng.
Tàu ngầm rải thủy lôi M3
Tàu ngầm M3
M3 được chuyển đổi vào năm 1927, nhiệm vụ chủ yếu là để thử nghiệm hệ thống rải thủy lôi cho lớp tàu Grampus. Những quả thủy lôi được vận chuyển thông qua băng tải chạy dọc boong trên và bao phủ bởi một lớp vỏ mở rộng, chúng được rải thông qua cánh cửa ở phía đuôi.
M3 dự kiến sẽ bị loại biên vào năm 1933, nhưng sau các báo cáo về năng lực hạn chế khi hoạt động, nó đã được cho nghỉ hưu sớm vào ngày 6/2/1932 và bị tháo dỡ tại Newport trong tháng 4/1932.
Tàu ngầm M3 trước khi chuyển đổi thành tàu rải thủy lôi
Tàu ngầm M3 sau khi chuyển đổi thành tàu rải thủy lôi
Tàu ngầm M4 - Chiếc cuối cùng thuộc lớp đã bị tháo dỡ trước khi hoàn thành.