Khi tiếp quản Trường Sa, đã thấy tàu Trung Quốc lởn vởn...

Dương Phạm (Tổng hợp) |

(Soha.vn) - Năm 1975, ta chủ trương: Bí mật, nhanh chóng giải phóng các đảo ở Trường Sa do quân SG đóng giữ, kiên quyết không để lực lượng nào khác lợi dụng tình hình chiếm đóng.

Tướng đặc công Việt Nam kể những chuyện ít biết về giải phóng Trường Sa.

Đảo Song Tử Tây là đảo đầu tiên thuộc quần đảo Trường Sa được giải phóng. Khoảng 5h30 sáng 14/4/1975, binh sĩ Sài Gòn trên đảo Song Tử Tây đồng loạt đầu hàng. Lá cờ Tổ quốc được kéo lên.

Cùng lúc này các lực lượng của đoàn đặc công 126 tiếp tục theo tàu đi giải phóng các đảo còn lại: Sinh Tồn, Nam Yết, Sơn Ca, An Bang và Trường Sa Lớn. Ngay hôm đó, tàu 675 chở quân của sư đoàn 2 Quân khu V kịp thời ra tiếp quản, thiết lập hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo Song Tử Tây, rồi chở quân của lữ đoàn 126 tiếp tục hành trình giải phóng quần đảo Trường Sa.

Trong thời gian làm nhiệm vụ giải phóng Trường Sa, có một câu chuyện mà hàng chục năm sau, tướng Mai Năng - nguyên Tư Lệnh đặc công Việt Nam, người chỉ huy trực tiếp trận đánh giải phóng Trường Sa - vẫn còn nhớ rõ. Ấy là sau khi giải phóng một mục tiêu trong quần đảo, ông đã gặp và hỏi những binh sĩ Việt Nam Cộng hòa về lý do họ quyết định đầu hàng dù trước đó đã có sự chống trả. Câu trả lời thật sự khiến ông bất ngờ: “Sau khi đã nhận biết đối phương qua giọng nói thì chúng tôi bình tĩnh hơn, vì lực lượng giải phóng đảo là quân đội miền Bắc, đều là đất nước Việt Nam cả!”.

Cùng với việc giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, công tác tiếp quản cũng được ta triển khai rất khẩn trương. Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên phó tham mưu trưởng Vùng 4 hải quân, một người từng tham gia tiếp quản Trường Sa những ngày cuối tháng 4/1975 kể lại: Sau gần hai ngày đêm hành trình, đoàn công tác gồm hai tàu do Bộ Tư lệnh Hải quân giả dạng tàu cá số hiệu 679 và 680 đã vào sát Tây Nam đảo Song Tử Tây.

Đại tá Nguyễn Văn Dân

Đại tá Nguyễn Văn Dân

Lên đảo, việc đầu tiên đoàn công tác làm là vào viếng ngôi mộ mới đắp của liệt sĩ Tống Văn Quang (đặc công hải quân quê tận tỉnh Cao Bằng), hi sinh ngày 14/4/1975. Trên đảo có bia chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, ghi “Năm 1955, phái bộ của Hải quân Việt Nam Cộng hòa đến thị sát và tiến hành tổ chức triển khai lực lượng đóng giữ...” và bảng tọa độ kèm chỉ dẫn hàng hải đến Singapore, Malaysia… Trên đảo có rất nhiều những rặng dừa đang thời xanh tốt, gió thổi qua kẽ lá như đưa tiếng ru giấc ngủ ngàn thu cho đồng đội.

Rời Song Tử Tây, đoàn tiếp tục lên đường đến đảo Sơn Ca, một ngày sau khi đảo này được lực lượng ta trên tàu 641 giải phóng (25/4). Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân lên là một cây bàng cao lớn ngay giữa đảo. Tại đây, đoàn nhận 16 tù binh VNCH để đưa về Cam Ranh trên tàu 641.

Sau đó, đoàn tiếp tục đến đảo Nam Yết. Mấy hôm trước tại đây có 1 tàu khu trục của Hải quân Sài Gòn nhưng tàu này rút đi khi thấy tàu ta tới. Nam Yết khi đó cây cối rậm rạp, có 7 cây dừa, nhà ở cũng là công sự kiểu vòm nửa chìm nửa nổi. Anh em chiến sĩ ở đây sinh hoạt rất khó khăn, vì thiếu nước ngọt.

Đảo thứ tư đoàn tới là đảo Sinh Tồn, Sinh Tồn tuy nhỏ hơn Nam Yết nhưng có một bãi cát rộng dành cho chim sinh sống, là đảo có rạn san hô rất đẹp. Để vào đảo Sinh Tồn, cán bộ đoàn công tác phải mang giày cao cổ lội nước qua bãi cạn, rất khó khăn.

Từ đảo Sinh Tồn, đoàn công tác di chuyển tới đảo Trường Sa Lớn vào ngày 2/5, đây là đảo mà đoàn công tác ở lại lâu nhất. Đảo lớn nhưng ít cây xanh, cả phía Bắc của đảo là khu vực các loại chim sinh sống.

Nhìn chung, khi đó tổ chức phòng thủ của quân đội VNCH tại Trường Sa còn sơ sài, các đảo còn hoang vu. Ở Nam Yết nhiều cây nhất, nhưng đảo này và đảo Sơn Ca hầu như không có chim trong khi ở Song Tử Tây, Sinh Tồn và Trường Sa Lớn rất nhiều chim. Có những bãi khi chiều về, đàn chim bay lượn như những đám mây, dưới đất chim con nằm dày đặc. Như lời tướng Mai Năng thì "Làm bạn với lính đặc công trên đảo lúc bấy giờ là bạt ngàn chim biển và những đàn vích nhiều không đếm nổi".

Chim biển và vích - bạn của lính đặc công trên đảo

Chim biển và vích - bạn của lính đặc công trên đảo

Khi mới tiếp quản quần đảo Trường Sa, chúng ta chưa xác định được cơ cấu tổ chức, trang bị, phương tiện, công tác phòng thủ tại các đảo. Sau đó, dần dần các khâu này được hoàn chỉnh, việc bảo đảm đời sống cho chiến sĩ trên các đảo đã đi vào nề nếp.

Theo Đại tá Nguyễn Văn Dân, có một điều rất đáng lưu ý là trong quá trình ra tiếp quản các đảo năm 1975, đoàn công tác hầu như không thấy tàu chiến nước ngoài, nhưng tại khu vực đã thấy tàu Trung Quốc giả dạng tàu đánh cá lởn vởn theo dõi. Khi thấy tàu ta đến, họ rút đi. Đại tá Dân cho rằng, cán bộ chiến sĩ càng thấm thía chủ trương của trên: Phải bí mật, nhanh chóng giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa đang do quân Sài Gòn đóng giữ, kiên quyết không để lực lượng nào khác lợi dụng tình hình lúc đó chiếm đóng...

(Bài viết có sử dụng tư liệu của các đồng nghiệp báo Tuổi Trẻ, Tiền Phong. Trân trọng cảm ơn!)

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại