Phát biểu khai mạc hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Hoàng Trung cho biết: “Tính đến tháng 10 năm 2023, riêng kim ngạch xuất khẩu của ngành trồng trọt là khoảng 22 tỷ đô đóng góp gần 50% toàn ngành. Bên cạnh việc đảm bảo kiểm soát sâu bệnh và dịch hại, nhiệm vụ trọng tâm của ngành trồng trọt đó là hỗ trợ các chủ trương của ngành nông nghiệp trong việc phát triển ngành bền vững, xanh và chất lượng cao. Do đó định hướng phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV là rất quan trọng và đã được đề cập trong các đề án của ngành nông nghiệp, trong đó ưu tiên phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học".
“Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá rất cao nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội, địa phương đã đồng hành và tạo ra các kết quả tích cực trong việc đẩy mạnh ứng dụng thuốc BVTV sinh học trong thời gian qua như xây dựng được các mô hình sử dụng thuốc BVTV sinh học; thay đổi nhận thức, tư duy của người dân; tạo ra các sản phẩm thuốc BVTV sinh học và ứng dụng vào sản xuất. Trong danh mục thuốc BVTV hiện nay, thuốc sinh học hiện chiếm 19% và khối lượng sử dụng tăng dần theo thời gian; lợi ích từ sử dụng thuốc sinh học rất rõ. Đây là tiền đề để thực hiện hiệu quả việc phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong thời gian tới.” – thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh.
Theo chia sẻ của tổ chức CropLife Châu Á, trên quy mô toàn cầu, ngoài hơn 600 hoạt chất BVTV tổng hợp, hiện có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Bắc Mỹ hiện tại là đang là khu vực có tỷ lệ ứng dụng thuốc BVTV sinh học cao nhất. Về mức độ sử dụng phổ biến, thuốc trừ sâu sinh học đang chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong các loại thuốc BVTV sinh học và thuốc hoá học có nguồn gốc tự nhiên chiếm 1/3 thị trường thuốc BVTV sinh học.
Trong giai đoạn 2005 – 2025; mức độ tăng trưởng thị trường thuốc BVTV sinh học bình quân hàng năm là 10% trong khi tỷ lệ này của thuốc hoá học đang giảm 3% mỗi năm.
CropLife Châu Á cũng nhấn mạnh vai trò của thuốc BVTV sinh học khi đây được xem là một trong những công cụ hữu hiệu trong chương trình IPM khi kết hợp cùng với các sản phẩm hóa chất nông nghiệp khác, biện pháp canh tác, quản lý thời tiết và các yêu tố đầu vào…để đảm bảo năng suất và chất lượng tối ưu trong việc phòng trừ dịch hại.
Thuốc BVTV sinh học đặc biệt hữu hiệu tại những thời điểm như đầu mùa vụ, khi áp lực sâu bệnh thấp và tại cuối vụ khi nhu cầu về kiểm soát dư lượng và PHI cần được ưu tiên. Hạn chế phát triển tính kháng cũng là một ưu điểm và đóng góp nổi bật của thuốc BVTV sinh học.
Tại Việt Nam, nhằm cụ thể hóa các chính sách về thuốc BVTV sinh học, Cục Bảo vệ thực vật đã xây dựng và triển khai chương trình “Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học giai đoạn 2021 - 2025” . Trong công tác quản lý, một số chính sách ưu tiên về đăng ký thuốc BVTV sinh học so với các thuốc BVTV hoá học đã được ban hành và triển khai.
Đối với thuốc BVTV sinh học, nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư cho nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ hiện đại để tạo ra thuốc BVTV sinh học đã được quy định tại Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật. Các loại thuốc BVTV sinh học đã được đăng ký vào Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam bao gồm: Thuốc BVTV sinh học là các vi sinh vật chiếm khoảng 13%; Thuốc BVTV sinh học có nguồn gốc tự nhiên chiếm khoảng 24%; và thuốc BVTV sinh học thuộc nhóm hóa sinh chiếm khoảng 63%.
Theo ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Bảo vệ Thực vật (Bộ Nông nghiệp & PTNT): “Số liệu từ các địa phương cho thấy trong 3 năm gần đây (2020-2022) tổng lượng thuốc BVTV sử dụng trung bình cả nước đang xu hướng giảm dần qua các năm từ 3,81 kg/ha năm 2020 giảm xuống 3,19 kg/ha năm 2022. Trong đó, lượng thuốc BVTV sinh học sử dụng trung bình trên cả nước vẫn được sử dụng ở mức ổn định và có xu hướng tăng từ 16,67% năm 2020 lên 18,49% năm 2022.”
Cũng tại hội nghị, thứ trưởng Hoàng Trung cũng chỉ ra một số hạn chế, khó khăn như: Nhận thức của doanh nghiệp, người dân và địa phương còn hạn chế; Quy định hiện nay chưa thực sự tạo động lực và hấp dẫn để chuyển hướng nghiên cứu phát triển thuốc sinh học; Nghiên cứu về thuốc sinh học tập trung chủ yếu ở bước phòng thí nghiệm; Hiện số lượng mô hình còn ít, cần đa dạng hơn.
Các chuyên gia cũng đã chia sẻ thêm về tình hình nghiên cứu, sản xuất và thương mại các sản phẩm thuốc BVTV sinh học trong nước. Giáo sư – Tiến sỹ Phạm Văn Toản, Phó Giám Đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) cho biết việc nghiên cứu phát triển các sản phẩm thuốc BVTV sinh học được bắt đầu từ những năm 1970 với một số công trình đã được xuất bản trên các tạp chí khoa học uy tín; tuy nhiên cho tới nay có rất ít sản phẩm đang được giới thiệu và thương mại trên thị trường.
Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam (VIPA) đã chia sẻ một số khó khăn hạn chế trong việc ứng dụng thuốc BVTV sinh học trong điều kiện canh tác quy mô nhỏ tại Việt Nam như hiệu lực sinh học thấp, giá thành cao và ít lựa chọn. Ông cho rằng thuốc BVTV sinh học chưa thể thay thế hoàn toàn thuốc BVTV hoá học trong giai đoạn hiện nay.
Tiến sỹ Tony Alfonso - Chủ tịch Tổ công tác về Thuốc BVTV Sinh học – CropLife Châu Á cho rằng thuốc BVTV sinh học mang lại các cơ hội và lợi ích nổi bật, nhưng không nên được xem như biện pháp thay thế cho thuốc BVTV hoá học. Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc triển khai hệ thống pháp lý có tính dự báo và phù hợp đối với thuốc BVTV sinh học để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả nhất quán của sản phẩm mà không làm hạn chế việc giới thiệu và thương mại thuốc BVTV sinh học trên thị trường, trong đó cần có những hướng dẫn đăng ký và quản lý riêng đối với thuốc BVTV và cơ chế kiểm soát chất lượng chặt chẽ.
Kinh nghiệm quản lý và ứng dụng thuốc BVTV sinh học tại nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy áp dụng cách tiếp cận linh hoạt để đăng ký thuốc BVTV sinh học dựa vào đánh giá khoa học và điều kiện thực tiễn sẽ giúp đi tắt đón đầu trong việc ứng dụng các loại thuốc BVTV sinh học mới, đồng thời duy trì tính nhất quán với những khuôn khổ pháp lý về thuốc BVTV sinh học đã có.
Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Hội làm vườn cho rằng cần đổi mới công tác quản lý thuốc BVTV sinh học tại Việt Nam bao gồm cập nhật, cụ thể hoá khái niệm thuốc BVTV; bổ sung quy định đối với sản phẩm sinh học mới; đơn giản hoá, loại bỏ một số thủ tục và yêu cầu về số liệu thử nghiệm đối với thuốc BVTV sinh học và đưa ra hướng dẫn về trường hợp thuốc BVTV sinh học được đăng ký đặc cách…
Hội thảo đã đưa ra các nhóm giải pháp như sau:
Về cơ chế chính sách: Tiếp tục rà soát, đề xuất xây dựng các chính sách cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Về khoa học công nghệ: Khuyến khích liên kết nghiên cứu, phát triển thuốc sinh học giữa các doanh nghiệp với các viện, trường hoặc các doanh nghiệp khoa học công nghệ được thực hiện các dự án theo hình thức hợp tác công tư trong lĩnh vực này.
Đặt hàng và ưu tiên bố trí kinh phí cho các đề tài, dự án nghiên cứu phát triển và sản xuất thuốc BVTV sinh học phục vụ sản xuất tại Việt Nam.
Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, chuyển đổi nhận thức của cán bộ địa phương, người sản xuất, kinh doanh, buôn bán và người sử dụng trong việc sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Tuyên truyền, phổ biến việc tuân thủ thực thi pháp luật, các chính sách của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT về ưu tiên trong việc phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Tăng cường hợp tác công tư với sự tham gia của doanh nghiệp, nhà nước, Hiệp hội ngành hàng và người dân cùng phối hợp thực hiện sử dụng thuốc BVTV sinh học trong sản xuất nông nghiệp.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thuốc BVTV sinh học, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm và năng lực của các nước phát triển và các tổ chức quốc tế như FAO, WHO... để phát triển thuốc BVTV sinh học; chuyển giao các công nghệ mới, tiên tiến trong sản xuất thuốc BVTV sinh học.
Chuyển đổi số, xây dựng, số hóa cơ sở dữ liệu về thuốc BVTV, đồng bộ từ trung ương đến địa phương, hỗ trợ cán bộ địa phương, doanh nghiệp, cơ sở buôn bán, người sử dụng ứng dụng công nghệ số trong công tác quản lý và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với sản xuất, kinh doanh, buôn bán và sử dụng thuốc BVTV, nhất là công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thuốc BVTV.