Nước hồ 5 lần dâng lên hạ xuống
Tháng 5 năm 1977, huyện Tích Xuyên ở thị Nam Dương thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc bất ngờ gặp hạn hán nghiêm trọng. Người dân trong huyện cho rằng đây là đợt hạn hán trăm năm mới có một lần. Lúc đó, đất đai khô nứt, cây cối đều chết khô.
Cho tới tận tháng 10, hạn hán ngày càng gay gắt hơn, hầu hết các con sông ở huyện Tích Xuyên đều cạn kiệt. Mực nước của hồ chứa Đan Giang Khẩu nằm trên địa phận hai tỉnh Hà Nam và Hồ Bắc cũng giảm mạnh. Thậm chí, sườn núi Long Sơn đã trầm mình trong nước suốt bao năm cũng lộ ra giữa làn nước.
Một ngày nọ, hơn 10 cậu bé ở thôn Hạ Tự thuộc huyện Tích Xuyên rủ nhau đến chỗ sườn núi Long Sơn mới lộ ra đó để chơi. Khi đang nô đùa, lũ trẻ đột nhiên nghe thấy một tiếng ầm rất lớn. Sau tiếng động đó, một hố lớn có đường kính khoảng 1m xuất hiện trên mặt đất. Mấy đứa trẻ vừa sợ vừa tò mò rón rén tới gần miệng hố ngó xuống, chúng mơ hồ thấy bên trong hố có rất nhiều chai lọ nhưng không ai dám tới gần kiểm tra.
Sau đó, chúng quyết định chạy về thôn báo cho người lớn về sự việc. Dân làng hò nhau kéo đến cái hố thì phát hiện ra bên dưới có rất nhiều bình gốm và các loại cổ vật khác nhau. Họ cầm theo túi và dụng cụ đào bới để tìm kiếm cổ vật.
Chẳng mấy chốc, tin tức đến tai trưởng thôn Lưu, vốn là người có ý thức bảo vệ di tích văn hóa, ông Lưu liền cử người tới canh gác hiện trường. Trưởng thôn nhanh chóng báo cáo với trung tâm văn hóa huyện Tích Xuyên và đề nghị họ cử cán bộ xuống kiểm tra các di tích văn hóa này.
Bên dưới miệng hố có rất nhiều món cổ vật. (Ảnh: Sohu)
Khi biết tin, ông Trương Tây Hiển, giám đốc trung tâm văn hóa huyện đã dẫn theo một nhóm các nhà khảo cổ đến sườn núi Long Sơn ở thôn Hạ Tự. Sau khi thăm dò và khai quật, họ phát hiện ra rằng nơi đây có rất nhiều ngôi mộ với những đặc điểm của thời Xuân Thu. Sau này các nhà khảo cổ đã đặt tên cho chúng là quần thể lăng mộ Long Thành.
Tuy nhiên, khi Trương Tây Hiển và nhóm khảo cổ đang khai quật các ngôi mộ cổ thì một sự cố xảy ra. Mực nước của hồ chứa Đan Giang Khẩu đột nhiên dâng lên khiến cho tiến độ công việc bị cản trở. Họ đành phải lên bờ chờ đợi tới khi nước hồ rút xuống liền vội vã tiếp tục khai quật. Cứ như vậy, sau 5 lần nước dâng lên rồi rút đi liên tục, nhóm khảo cổ vẫn không thể làm được gì nhiều. Nếu cứ tiếp tục, tiến độ công tác khai quật sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhóm chuyên gia đã bàn nhau điều chỉnh lại kế hoạch.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy một quần thể mộ sau khi nước hồ rút xuống. (Ảnh: Sohu)
Họ đã quyết định áp dụng phương pháp du kích "tị thật kích hư" để thực hiện các cuộc khai quật lớn. Cụ thể là, họ sẽ tiến hành khai quật đặc biệt với những ngôi mộ có quy lớn, có lượng di tích văn hóa phong phú trước. Sau đó, họ mới tiếp tục trên những ngôi mộ nhỏ. Thậm chí, có những lúc, các nhà khảo cổ còn phải liều mình lặn xuống nước để công việc không bị trì hoãn.
Thế nhưng, trong môi trường làm việc nguy hiểm như vậy suốt 1 năm, nhóm của Trương Tây Hiển đã khai quật được hàng chục nghìn di tích văn hóa còn sót lại của nhà Chu thuộc thời Xuân Thu từ nhóm mộ cổ này.
"12 con rồng" dưới hồ nước
Trong đó, khu lăng mộ có số hiệu A2 là nơi họ tìm thấy nhiều di vật văn hóa quý giá nhất. Nhóm khảo cổ đã tìm thấy 6.908 miếng ngọc bích, đồ hiến tế, vũ khí, nhạc cụ, xe ngựa, đồ sơn mài… Mỗi một món đồ đều được chế tác vô cùng tinh xảo và chất lượng cao, có thể coi chúng là bảo vật quốc gia.
Tuy nhiên, điều khiến nhóm của Trương Tây Hiển bối rối chính là trong một lần lặn xuống tìm kiếm, họ đã đụng trúng "12 con rồng". Kỳ thực, chúng là những con rồng được làm bằng đồng. Không chỉ có "12 con rồng", các chuyên gia còn tìm thấy rất nhiều mảnh đồng vỡ khác. Theo thống kê sơ bộ, có tới gần một nghìn mảnh đồng vụn.
"12 con rồng" được tìm thấy cùng gần một nghìn mảnh vụn. (Ảnh: Sohu)
Những mảnh vỡ này có kích thước lớn nhỏ khác nhau, nhiều mảnh đã bị biến dạng, vết nứt không đồng đều, có thể là do bị người khác cố ý hủy hoại. Sau khi kiểm tra kỹ càng, các chuyên gia suy đoán rằng, kẻ phá hoại này thuộc thời nhà Hán. Kẻ trộm mộ này đã cố đưa "12 con rồng" bằng đồng kia ra khỏi mộ nhưng không thể nên đã đập vỡ chúng.
Sau đó, Cục Quản lý Di sản Văn hóa Quốc gia đã cử một số chuyên gia hàng đầu tới để kiểm tra và nghiên cứu những "con rồng" bằng đồng. Cuối cùng, họ đã xác định được rằng chúng là vật trang trí trên một cái bàn bày rượu làm từ đồng xanh thuộc thời Xuân Thu. "12 con rồng" cùng các mảnh vỡ được bàn giao cho Vương Trường Thanh, một chuyên gia phục chế đồ đồng nổi tiếng của bảo tàng tỉnh Hà Nam chịu trách nhiệm phục hồi.
Sau nhiều năm phục hồi, các chuyên gia đã "trả lại" vẻ đẹp ban đầu của "12 con rồng". (Ảnh: Sohu)
Vào thời điểm đó, ông Vương Trường Thanh đã ngoài 60 tuổi. Ông đã cùng với trợ lý của mình sử dụng phương pháp phục hồi đồ đồng truyền thống để phục chế món đồ cổ đó. Sau 1095 ngày đêm làm việc chăm chỉ và 26 quy trình phục hồi phức tạp, chiếc bàn bày rượu bằng đồng dần thành hình. Tới tận đầu năm 1984, Vương Trường Thanh cuối cùng đã hoàn thành phục chế chiếc bàn bày rượu bằng đồng này. Ngay khi ra mắt, chiếc bàn ngay lập tức khiến cả thế giới phải kinh ngạc bởi nó được làm từ công nghệ đúc đồng đã thất truyền từ lâu. Nó còn được đặt tên là "Vân văn đồng cấm". Có thể hiểu, công nghệ này hiện đã không ai có thể thực hiện. Như vậy, chiếc bàn bày rượu bằng đồng này là món bảo vật có một không hai, không thể làm giả được.
Bảo vật không thể làm giả
Vân văn đồng cấm có chiều cao khoảng 28,8 cm, dài 103 cm, rộng khoảng 46 cm, nặng hơn 90 kg và có hình chữ nhật. Đặc biệt, bên trong thân của chiếc bàn hoàn toàn rỗng, gồm 5 lớp xếp chồng lên nhau. Chiếc bàn này được thiết kế theo phong cách mạnh mẽ của nhà Chu thuộc thời Xuân Thu.
Cận cảnh của "con rồng" bằng đồng đính trên vân văn đồng cấm. (Ảnh: Sohu)
12 con rồng với các hình dáng khác nhau được đính quanh mặt bàn. Mỗi con đều có eo lõm đuôi quăn, đầu và lưỡi nhô ra. 12 con rồng này tượng trưng cho sự hùng mạnh của triều đại lúc bấy giờ. Quy trình sản xuất chiếc bàn bày rượu bằng đồng này rất phức tạp và tinh tế. Món cổ vật này được đúc bằng phương pháp đúc sáp, là một cách đúc ba chiều vô cùng phức tạp và phương pháp sử dụng khuôn thông thường không thể tạo ra sản phẩm như vậy.
Toàn cảnh của vân văn đồng cấm được đúc bằng phương pháp đã thất truyền. (Ảnh: Sohu)
Theo ghi chép trong "Đường Hội Yếu", phương pháp đúc sáp bắt đầu từ những năm đầu của triều đại nhà Đường. Vua Đường Cao Tổ đã từng đúc một số lượng lớn đồ đồng theo phương pháp này thông qua các lò nung chính thức của triều đình. Vì phương pháp này được công bố vào thời điểm đó nên mọi người đều cho rằng nó có từ thời nhà Đường. Tuy nhiên sự xuất hiện của vân văn đồng cấm đã đẩy lịch sử của kỹ thuật đúc sáp lên sớm hơn 1.100 năm.
Bảo vật bị cấm trưng bày ở nước ngoài
Theo các tài liệu lịch sử, vân văn đồng cấm là một chiếc bàn bày rượu làm bằng đồng xanh mà chỉ có vương tôn, quý tộc hoặc các quan lại cao cấp sử dụng. Hơn nữa, nó được đúc bằng phương pháp đúc sáp thất truyền hàng nghìn năm nên ý nghĩa lịch sử và giá trị khảo cổ học của nó càng lớn.
Các chuyên gia định giá, bảo vật này không dưới 33.000 tỷ đồng. (Ảnh: Sohu)
Sau khi nghiên cứu các chữ khắc trên vân văn đồng cấm, các chuyên gia xác định rằng nó là một món đồ tùy táng trong mộ của Tử Canh, một tể tướng dưới thời Sở Khang Vương.
Năm 2002, Cục Quản lý Di sản Văn hóa Quốc gia đã công bố vân văn đồng cấm là một trong số 64 bảo vật quốc gia bị cấm trưng bày ở nước ngoài. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, giá trị của nó không dưới 10 tỷ NDT (tương đương 33.000 tỷ đồng).