Người đưa Arsenal từ cõi vô danh thành thế lực thống trị bằng W-M

Khánh Tùng - Mạnh Quân |

Arsenal có lẽ sẽ không bao giờ có được vị thế như ngày hôm nay nếu không có người đã đưa "Pháo thủ" từ cõi vô danh trở thành một thế lực thống trị ở Anh bằng sơ đồ W-M huyền thoại.

Trang 1

Arsenal có lẽ sẽ không bao giờ có được vị thế như ngày hôm nay nếu không có người đã đưa "Pháo thủ" từ cõi vô danh trở thành một thế lực thống trị ở Anh bằng sơ đồ W-M huyền thoại.

Những năm đầu thập niên 1920, bóng đá Anh trải qua một cuộc khủng hoảng khá trầm trọng. "Chất lượng" của các trận đấu đi xuống thê thảm cùng số lượng các bàn thắng (chỉ còn trung bình hơn 2 bàn/trận, một con số rất thấp thời bấy giờ), trong khi số các trận hòa 0-0 thì tăng lên chóng mặt.

Lượng khán giả tới sân giảm dần theo từng trận. Bóng đá Anh đứng trước nguy cơ lụi tàn ngay khi nó còn chưa kịp phát triển.

Trước tình hình đó, FA buộc phải vào cuộc tìm giải pháp. Luật việt vị, vốn không đổi từ năm 1886, quá chặt chẽ được cho là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng khan hiếm bàn thắng.

Thời điểm đó, một cầu thủ tấn công muốn được công nhận là không việt vị phải đứng trên 3 cầu thủ phòng ngự của đối phương (thường là thủ môn và 2 hậu vệ). Giải pháp được đưa ra là nới lỏng luật việt vị: Thay vì 3, cầu thủ tấn công chỉ cần đứng trên 2 cầu thủ phòng ngự của đối phương là hợp lệ.


Từ năm 1925, luật việt vị mới bắt đầu được FA áp dụng rộng rãi. Nó dẫn tới những thay đổi đáng kể trong cách phòng ngự của các đội bóng. Trước đây, một đội bóng có thể vẫn "dư" ra một hậu vệ dự phòng khi hậu vệ khác theo sát tiền đạo đối phương (và vẫn bắt được việt vị).

Nhưng dưới sự điều chỉnh của luật mới, một sai sót trong phán đoán của hậu vệ có thể đặt thủ môn của anh ta vào thế một đối một với tiền đạo đội bạn.

Như một lẽ tất yếu, khi một thay đổi xuất hiện, sẽ có đội thích nghi tốt, có đội không. Điều này dẫn tới việc bóng đá Anh tràn ngập những tỉ số lạ kiểu 1-5 hay 0-7. Và thực tế là sau khi luật việt vị mới được áp dụng, số lượng bàn thắng đã tăng lên thấy rõ.

Từ chỗ chỉ có trung bình 2,58 bàn mỗi trận trong mùa 1924/25, tăng lên thành 3,69 bàn/trận ở mùa tiếp theo, là mùa đầu tiên luật việt vị mới được đưa vào áp dụng.

Nhưng luật việt vị mới cũng tạo ra một hệ quả mà FA không mong muốn. Các đội bóng dần dần nhận thấy sơ đồ "Kim tự tháp" 2-3-5 không còn phù hợp với tình hình mới, và, một cách tự phát và không hệ thống, nhiều đội bắt đầu chuyển sang sử dụng 3 hậu vệ bằng cách kéo một tiền vệ trung tâm xuống hàng thủ.

Đó chính là cơ sở để HLV Herbert Chapman, người tới Arsenal chính vào năm luật việt vị thay đổi (1925), phát triển sơ đồ W-M đã giúp Arsenal thống trị bóng đá Anh trong suốt một thập kỷ.

Herbert Chapman (1878-1934) sinh ra trong một gia đình thợ mỏ đông con ở vùng Yorkside, Đông Bắc nước Anh. Nhà Chapman có truyền thống nhiều đời làm thợ mỏ. Tuy nhiên, nhờ học giỏi, Chapman đã thoát được cảnh sống tối tăm dưới hầm lò. Ông được đi học về kỹ sư mỏ ở Cao đẳng kỹ thuật Sheffield.

Herbert Chapman thời còn là cầu thủ 

Ngoài nghề mỏ, bóng đá chính là một mối quan tâm khác của Chapman. Tuy nhiên, không giống như người anh Harry, tài năng của Herbert không đủ để ông phát triển sự nghiệp cầu thủ. Cả sự nghiệp của mình, Herbert lang thang hết từ đội này tới đội khác theo kiểu ở đâu có việc làm cho ông, thì ở đó ông sẽ cố gắng xin gia nhập một đội bóng để được ra sân mỗi tuần.

Sự nghiệp cầu thủ của Herbert, do đó, không có nhiều điều đáng nói. Nếu có gì đó "nổi bật" của Herbert-cầu-thủ, thì đó chỉ có thể là chi tiết ông thường ra sân với đôi giày "thửa" bằng da màu vàng nhạt, với mục đích là để các đồng đội dễ nhận ra mình trên sân. Đó cũng là một dấu hiệu của tính tìm tòi sẽ trở thành một phần quan trọng tạo nên thành công của Herbert-HLV sau này.

Việc Herbert Chapman trở thành HLV cũng là một câu chuyện thú vị. Thực tế thì ông nhận công việc huấn luyện đầu tiên khi còn chưa thực sự có ý định làm điều đó.

Đó là vào năm 1907. Khi Herbert đang trong bồn tắm sau một trận đấu cho đội dự bị Tottenham, bạn thân của ông là Walter Bull nhắc chuyện được đề nghị làm HLV kiêm cầu thủ ở Northampton nhưng không thích vì vẫn muốn tiếp tục sự nghiệp cầu thủ. Herbert nói rằng ông muốn công việc đó, Bull bèn giới thiệu ông với Northampton, và Herbert có đội bóng đầu tiên.

Herbert đã có một khởi đầu khá ấn tượng. Tới Giáng sinh năm 1908, Northampton đã vươn lên dẫn đầu giải Miền nam, và họ kết thúc mùa giải đó với chức vô địch cùng số bàn thắng kỷ lục 90 bàn.


Những thành công với Northampton đưa Herbert tới Leeds City vào năm 1912, và ông tiếp tục có những bước tiến mạnh mẽ khi đưa đội bóng này từ vị trí áp chót giải Hạng nhì lên vị trí thứ tư trong 2 mùa đầu tiên.

Tuy nhiên, khi Herbert đang cùng Leeds ấp ủ những dự định lớn lao, thì chiến tranh nổ ra. Phần lớn các cầu thủ đều ra chiến trường chiến đấu, còn bản thân Herbert cũng chuyển sang làm việc ở một kho vũ khí.

Tuy nhiên, những lùm xùm liên quan tới việc trả lương cầu thủ trong thời gian này đã khiến Leeds bị trục xuất khỏi giải Hạng nhì vào năm 1919, trong khi Chapman thì bị cấm tham gia vào các hoạt động bóng đá vĩnh viễn.

Sau án phạt, Chapman quyết định rời xa bóng đá. Nhưng định mệnh không cho phép ông làm điều đó. Năm 1921, Huddersfield Town tìm đến ông khi HLV trưởng của họ, Ambrose Langley thấy rằng mình cần một trợ lý. Với sự giúp đỡ của Huddersfield, Chapman làm đơn xin xóa án lên FA, và, may mắn cho ông cũng như bóng đá Anh, lá đơn của ông được chấp nhận.

Không lâu sau khi Chapman về, Langley quyết định chuyển nghề, và toàn bộ quyền lực thuộc về Chapman. Với sự tin tưởng của ban lãnh đạo, Chapman đã thay đổi hoàn toàn quan niệm về một HLV. 

Arsenal với kỷ nguyên Chapman

Nếu trước đó, HLV chỉ như một người quản lý nhân sự, những việc khác như tuyển mộ cầu thủ hay quyết định đội hình ra sân đều do ban lãnh đạo quyết định. Thì với Chapman, HLV được kiểm soát gần như mọi mặt, từ chiêu mộ cầu thủ, lựa chọn chiến thuật, tới việc chọn... bài hát để phát trên SVĐ trước trận đấu và trong giờ nghỉ!

Một đặc điểm thiên tài khác ở Chapman là khả năng đánh giá tài năng cầu thủ. Ông luôn nhìn rõ cầu thủ nào thì phù hợp nhất với vị trí nào. Khả năng này lại được hỗ trợ bởi một khả năng khác: thuyết phục ban lãnh đạo chi tiền. Khi Chapman đã nhìn thấy một cầu thủ mà đội bóng (hay chính là ông) cần, thì bằng cách này hay cách khác - kể cả đội bóng phải "phá két" - ông sẽ có được cầu thủ đó.

Chỉ sau 1 năm ở Huddersfield, Chapman đã giúp đội bóng có danh hiệu đầu tiên với chiến thắng 1-0 trước Preston North End ở chung kết Cúp FA. Chiến thắng ấy cũng gắn liền với một điều chỉnh chiến thuật sẽ trở thành nền tảng cho những thành công của Chapman sau này.

Để hỗ trợ cho hàng phòng ngự, Chapman đã kéo tiền vệ Tom Wilson xuống một vị trí thấp hơn thường lệ, biến anh này thành gần như là một hậu vệ thứ ba, với nhiệm vụ chủ yếu là phá lối chơi của đối thủ.

Vào năm 1925, Huddersfield có chức vô địch quốc gia thứ 3 liên tiếp. Tuy nhiên, thời điểm đó, Chapman đã không còn ở CLB. Ông tới London theo lời mời gọi của Arsenal.

Điều đáng nói là thời điểm Chapman nhận lời, Arsenal đang ở trong một tình trạng khá bết bát. Ngân sách hạn hẹp, chất lượng bóng đá thấp, khán đài trống vắng. Tuy nhiên, là một người nhìn xa trông rộng, Chapman đã sớm nhận ra những tiềm năng lớn ở đội bóng London.

Sơ đồ W-M (W-M)

Dẫu vậy, Chapman vẫn khẳng định rằng Arsenal sẽ cần 5 năm để có danh hiệu đầu tiên (và thực tế là ông đã đúng). Và để thực hiện kế hoạch lớn đó, việc đầu tiên Chapman làm là thuyết phục lãnh đạo... chi tiền. Từ chỗ không được chi quá 1.000 bảng cho mỗi cầu thủ, Arsenal mua cầu thủ đầu tiên dưới thời Chapman, tiền đạo Charlie Buchan, với giá tới 4.100 bảng!

Đó là một thương vụ xuất sắc. Buchan không chỉ có đóng góp to lớn trên sân, mà còn là người thuyết phục Chapman mạnh dạn chuyển hẳn sang sơ đồ 3 hậu vệ để thích nghi với những thay đổi do luật việt vị mới tạo ra.

Những điều chỉnh mới tiếp tục được Chapman lên ý tưởng và thử nghiệm. Thay vì 3-3-4 mất cân bằng theo đề nghị của Buchan, Arsenal dần dần định hình với sơ đồ 3-2-2-3, mà chúng ta sẽ gọi với cái tên W-M. 

Một điểm rất đặc biệt của Chapman, là kể cả khi cảm thấy ý tưởng đã chín muồi, ông vẫn không vội vàng áp dụng ra thực tế nếu điều kiện chưa cho phép. Thực tế, Arsenal chỉ bắt đầu "bung" W-M sau khi họ mua được tiền vệ Alex James với giá 9.000 bảng vào năm 1928.

James, người được đánh giá là rất giống Dennis Bergkamp ở khả năng chuyền bóng và nhãn quan chiến thuật, chính là hạt nhân cho tất cả những thành công của Arsenal. Với khả năng chọn vị trí và phân phối bóng xuất sắc của James, Arsenal thăng hoa cùng lối chơi phòng ngự phản công chưa từng thấy trước đây.

Mỗi khi đối phương có bóng, các cầu thủ phòng ngự Arsenal thường lùi xuống sát vòng cấm, với 2 tiền vệ trung tâm hoạt động không mệt mỏi để bảo vệ hàng thủ. Ngay khi có bóng, họ sẽ nhanh chóng đẩy lên cho Alex James ở vòng tròn giữa sân. Cùng lúc, 2 "tiền vệ phòng ngự" sẽ chuyển sang trạng thái tấn công. Nghĩa là khi Arsenal phản công, có thể có tới 7 cầu thủ của họ có mặt bên phần sân của đối thủ.

Herbert Chapman "khoe" danh hiệu trước các cổ động viên Arsenal

Người dân thành phố London tiếc thương trước sự ra đi của Herbert Chapman

Thành công cứ thế tự tìm đến. Sau danh hiệu đầu tiên là Cúp FA vào năm 1930 (đúng 5 năm sau ngày Chapman tới), Arsenal đã thống trị giải vô địch Anh với 5 chức vô địch trong 8 năm, vào các năm 1931, 1933, 1934, 1935 và 1938, cộng thêm một danh hiệu Cúp FA khác vào năm 1936.

Tuy nhiên, Chapman chỉ có thể chứng kiến 2 chức vô địch quốc gia của Arsenal. Đầu năm 1934, ông đột ngột ra đi ở tuổi 55 sau một cơn cảm cúm.

Vẫn còn nhiều tranh cãi về việc Chapman có phải cha đẻ của W-M hay không, nhưng có một điều chắc chắn, ông chính là người đã biến sơ đồ này thành công thức chiến thắng. Chứng kiến thành công của Arsenal, các đội bóng Anh đua nhau chuyển sang W-M, và nó còn thịnh hành cho tới tận cuối những năm 1940.

Tuy nhiên, không phải đội bóng nào cũng hội tụ đủ những yếu tố mà Arsenal của Chapman đã có để có thể vận dụng W-M một cách hoàn hảo (cụ thể hơn là họ thiếu một người như Alex James).

Điều đó khiến cho W-M phải chịu những cái nhìn méo mó. Người ta từng gọi đó là sơ đồ phòng ngự, và Chapman đã làm hỏng bóng đá Anh. Dù thực tế là trong mùa giải vô địch Anh đầu tiên, Arsenal ghi tới 127 bàn, một kỷ lục tồn tại cho tới giờ.

Tượng Chapman bên ngoài Emirates 

Không chỉ vấn đề chiến thuật, Chapman còn để lại cho bóng đá Anh rất nhiều di sản quý giá. Ông chính là người đã đề xuất việc đánh số các cầu thủ và việc tổ chức các trận đấu đêm (nhưng bị FA gạt đi, mãi sau này mới áp dụng).

Ông cũng là người đưa ra ý tưởng tổ chức các giải đấu châu lục, hàng chục năm trước khi Cúp C1 ra đời. Chapman cũng là người thay đổi màu áo Arsenal từ toàn đỏ thành thân đỏ + cánh tay trắng như hiện nay.

Là một người có tầm nhìn rộng, Chapman cũng là người đầu tiên đưa ra ý tưởng các đội trẻ chơi theo cùng một sơ đồ với đội chính, để khi cần các cầu thủ trẻ có thể hòa nhập ngay với đội chính mà không gặp khó khăn gì. Ông cũng khuyến khích các cầu thủ tham gia thảo luận về chiến thuật, điều chưa từng xuất hiện trước đó. Cũng Chapman là người đầu tiên đưa việc nói chuyện với cầu thủ trước và giữa trận thành một phần của công tác huấn luyện.

Những ảnh hưởng của Chapman, tóm lại, không chỉ gói gọn trong khuôn khổ Arsenal và cũng không chỉ dừng lại trong phạm vi một sân bóng. Ông, có thể nói, chính là người đã đặt nền bóng cho bóng đá Anh hiện đại.

Việc nhiều đội bóng ở thời đại chúng ta, gần nhất là New York City của Patrick Vieira và trước đó là Bayern của Pep Guardiola, sử dụng sơ đồ W-M trong một số trận đấu của họ càng cho thấy tầm nhìn của Chapman thực sự đã vượt quá xa so với thời đại của ông.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại