Súng ngắn của lực lượng đặc nhiệm hải quân Mỹ (US Navy SEAL)
Vào năm 1989, Bộ Tư lệnh các chiến dịch đặc biệt Mỹ (US SOCOM) bắt đầu xem xét lại các loại vũ khí mà họ từng trang bị để chắt lọc những loại thực sự phù hợp với hình thái tác chiến đặc biệt mà các lực lượng Mỹ phải tham gia.
Theo một nghiên cứu, vũ khí của tất cả các đơn vị nằm dưới quyền quản lý US SOCOM gồm tổng cộng 120 loại (bao gồm cả loại sửa đổi).
US SOCOM đã quyết định chuẩn hóa các loại vũ khí phù hợp cho các đơn vị dưới quyền. Họ muốn có những khẩu súng tốt hơn, cũng như có sự đồng bộ, trao đổi hay cung cấp đạn dược dễ dàng giữa các đơn vị với nhau.
Vũ khí được chuẩn hóa đầu tiên là mẫu súng ngắn trong chương trình Súng ngắn tấn công (OHWS). Theo dự kiến, khẩu súng ngắn mới sẽ thay thế cho khẩu M9 dùng đạn 9 mm - một khẩu súng được sử dụng thường xuyên như vũ khí dự phòng.
Beretta M9 tỏ ta không còn phù hợp với các lực lượng của USSOCOM
Loại đạn dành cho khẩu súng mới được nhanh chóng thông qua, tất nhiên không phải loại đạn tiêu chuẩn 9 mm (nặng 8g) của NATO do thiếu độ xuyên giáp. FBI đã từng chọn loại đạn 10 mm AUTO để thay thế đạn 9 mm nhưng nó quá mạnh và cũng chỉ có vài nhà nhà sản xuất.
Người ta cũng chỉ ra rằng đầu đạn 10 mm làm cho súng có vòng đời ngắn hơn bình thường. Cuối cùng, cỡ đạn .45 ACP được lựa chọn và cải tiến với sơ tốc và áp lực nén cao hơn thông thường.
Phương án nâng cấp khẩu súng ngắn huyền thoại 1911 đã bị loại bỏ vì chi phí nâng cấp còn cao hơn so với thiết kế một khẩu súng mới.
US SOCOM yêu cầu khẩu súng phải được thiết kế để chống mài mòn, tỉ lệ bắn hỏng phải cực thấp và đặc biệt hơn là có thể sử dụng như một vũ chiến đấu chủ lực. Ngoài ra, súng cũng được yêu cầu đi kèm với bộ phụ kiện một ống hãm thanh và một đèn chỉ thị laser chuyên dụng.
Sau một bài thử nghiệm, khẩu súng của Heckler & Koch và Colt đã được chọn để chuyển sang giai đoạn I của chương trình OHWS vào tháng 8/1991. Hai công ty được trao hợp đồng sản xuất 30 khẩu.
Trong khoảng thời gian đầu, H&K đã nghiên cứu những khía cạnh được ưa thích trên thị trường súng dân dụng tại Mỹ. Họ đưa ra một thiết kế bao gồm độ tin cậy, độ bền, chi phí... vào tháng 2/1991.
Nguyên mẫu đầu tiên của Mk 23 cho H&K chế tạo
Còn Colt dựa vào các công nghệ hiện có để thiết kế khẩu súng, được gọi là Colt OHWS. Họ sử dụng khung ngoài của M1911 với một hộp tiếp đạn 10 viên, máy súng của Colt Double Eagle và hệ thống khóa an toàn từ All American 2000.
Nòng của Colt OHWS không thể gắn ống hãm thanh trực tiếp, vì vậy một ngàm đã được thiết kế trên đường ray để gắn phụ kiện này.
Khẩu súng Colt đã bị loại sau giai đoạn I, còn của H&K thì được chuyển sang giai đoạn II. Ở giai đoạn này, các khẩu súng phải thể hiện độ tin cậy tuyệt đối.
Chúng phải trải qua một cuộc kiểm tra độ bền 30.000 viên và độ lệch 64 mm ở 25 mét, chỉ một bộ phận trong số này phải thay thế sau 20.000 viên. Khẩu súng hoạt động tuyệt vời ở nhiệt độ -25 độ F đến 140 độ F sau khi khi nhúng vào xúc bùn, đá và cát.
Giai đoạn III thực hiện việc trao hợp đồng sản xuất cho H&K vào tháng 6/1995. Phiên bản được sản xuất là Mark 23 Mod 0, và 1.950 khẩu được đặt mua với giá 1.186 USD mỗi khẩu. Tất cả đều là hàng "Made in Germany" và khẩu đầu tiên được gửi đến SOCOM vào ngày 1/5/1996.
Một trong những khẩu súng ngắn tốt nhất thế giới
Mk 23 trong một bài bắn thử
Mk 23 (viết tắt của Mark 23) là khẩu súng có khối lượng rỗng 1.2 kg, nặng gần gấp đôi so với một khẩu súng cùng nhà sản xuất là USP; khối lượng tăng lên thành 2.29 kg khi lắp đầy đủ bộ phụ kiện tiêu chuẩn theo yêu cầu của USSOCOM (đèn chỉ thị laser và ống hãm thanh). Chiều dài cơ bản là 245 mm, khi gắn thêm ống hãm thanh thì tăng thêm 176 mm.
Súng có nòng dài 150 mm. Giống như tất cả các khẩu súng đến từ H&K, nòng súng được rèn nguội theo phương pháp đặc biệt và được lót chrome bên trong để chống mài mòn hiệu quả hơn. Nòng súng không được khoét các đường phương tuyến như thông thường, mà làm rãnh xoắn theo kiểu đa giác, cách này làm cho nòng súng tốt hơn nhưng cũng đắt hơn.
Đầu nòng cũng có ren để gắn ông hãm thanh cũng như có vòng cao su để khớp với thanh trượt hơn, giúp tăng độ chính xác. Thiết kế này hỗ trợ rất nhiều cho độ chụm 1.44 inch của Mk 23, vượt xa yêu cầu ban đầu của USSOCOM.
Các chi tiết của Mk 23 được tháo rời
Mk 23 vẫn sử dụng các vật liệu mới theo xu hướng chung nhưng để đảm bảo độ tin cậy, súng vẫn dùng nhiều chi tiết kim loại và thanh trượt của nó là một tấm kim loại thay vì bằng polymer. Súng có dạng khung lớn, phù hợp với cả xạ thủ có tay lớn; vành bao cò cũng có thiết kế lớn, phù hợp với cả xạ thủ sử dụng bao tay.
Súng sử dụng thước ngắm – điểm ruồi cơ bản của H&K với 3 điểm phát xạ tự nhiên bằng Triti, giúp xạ thủ đễ lấy đường ngắm hơn trong tối.
Mk23 còn trang bị đèn chỉ thị laser kiêm đèn pin của Insight Technology bên dưới súng thông qua một đường ray. Đây là phụ kiện gần như được gắn kèm với Mk 23 trong mọi tình huống chiến đấu. Ngoài ra một phụ kiện khác thường thấy là ống hãm thanh của công ty Knight's Armament, được sử dụng trong những tình huống chiến đấu đòi hỏi tính bí mật.
Đèn chỉ thị laser kiêm đèn pin của Mk 23 được sản xuất bởi Insight Technology
Mk 23 sử dụng cơ chế giật ngắn, có khóa an toàn đặt ở phía sau thân, bên dưới thanh trượt. Súng sử dụng loại đạn .45 ACP được đánh giá là uy lực hơn hẳn so với loại đạn 9 mm Para.
Hơn nữa, loại đạn .45 ACP 12 g +P sử dụng trên Mk 23 là loại cải tiến của bản tiêu chuẩn, cho phép độ xuyên phá cao hơn so với thông thường. Đầu đạn bay với tốc độ cận âm 260 m/s, cho phép sử dụng hiệu quả với ống hãm thanh.
Mk 23 có thể sử dụng như một vũ khí chính với độ chính xác rất cao
Mk 23 được đánh giá là một trong những khẩu súng ngắn tốt nhất thế giới, không chỉ nổi tiếng khi được sử dụng bởi lực lượng US Navy SEAL, mà súng cũng được sử dụng trong các đội chống khủng bố của Canada, Indonesia, Malaysia và Ba Lan. Hiện tại, dân chơi súng cũng khá quen thuộc với phiên bản dân sự của Mk 23.