6 định hướng phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng
Chiều 7/12, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng chủ trì Hội nghị lần thứ hai với chủ đề về quy hoạch vùng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Nội dung Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng đã nghiên cứu và đưa ra những nhận diện, đề xuất 6 định hướng phát triển.
Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Tập trung phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ hiện đại: điện tử, sản xuất phần mềm, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ô tô, công nghiệp hỗ trợ, các dịch vụ thương mại, logistics, tài chính, ngân hàng, du lịch, viễn thông, đào tạo chất lượng cao, y tế chuyên sâu. Phát triển vùng trở thành trung tâm dịch vụ hiện đại của khu vực Đông Nam Á.
Phát huy vai trò trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao dẫn đầu cả nước, tập trung xây dựng một số ngành đào tạo mũi nhọn đạt trình độ khu vực, thế giới. Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ. Phát triển nông nghiệp hiệu quả cao, có giá trị kinh tế cao, bền vững, sinh thái theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn.
Phát triển bền vững kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển. Phát triển khu vực Hải Phòng-Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại mang tầm quốc tế, hàng đầu ở Đông Nam Á, là cửa ngõ, động lực phát triển của vùng; chú trọng phát triển kinh tế biển khu vực Thái Bình-Nam Định-Ninh Bình.
Hai là, tổ chức không gian phát triển vùng hợp lý gồm: 3 hành lang quốc gia, kết nối quốc tế - 2 hành lang bổ trợ kết nối liên vùng - 1 hành lang ven biển - 2 vùng động lực phát triển - 2 tiểu vùng kinh tế-xã hội. Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị -hành chính quốc gia, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; thành phố kết nối toàn cầu, ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Ba là, phát triển có trọng tâm, trọng điểm mạng lưới các khu vực kinh tế động lực, trung tâm kinh tế, đô thị chiến lược, trong đó Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh là tam giác tăng trưởng; phát triển các đô thị chủ đạo trên các tuyến hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng. Các chuỗi và chùm đô thị thuộc tiểu vùng Duyên hải Bắc bộ. Phát triển hệ thống đô thông minh, xanh, bền vững; lấy định hướng phát triển giao thông công cộng (theo mô hình TOD) làm cơ sở quy hoạch đô thị.
Bốn là, tập trung hoàn thiện mạng lưới kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là hạ tầng giao thông đảm bảo kết nối hiệu quả các trung trung tâm kinh tế nội vùng, trong nước, quốc tế; mở ra không gian phát triển mới, tạo dư địa cho phát triển vùng. Tổ chức, sắp xếp hiệu quả vận tải đa phương thức; phát huy lợi thế về cảng biển, cảng hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa và các hành lang kết nối của vùng. Đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành dứt điểm một số công trình hạ tầng giao thông trọng điểm quốc gia có tính liên kết vùng, hạ tầng số, hạ tầng đô thị...
Phát triển mạng lưới hạ tầng y tế, giáo dục, văn hoá đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ của nhân dân. Đầu tư các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa tại Hà Nội ngang tầm các trung tâm chuyên sâu kỹ thuật cao của khu vực và thế giới; gắn phát triển dịch vụ y tế với du lịch khám, chữa bệnh và nghỉ dưỡng.
Đầu tư, phát triển một số trường đại học lớn, đa ngành trong vùng theo hướng có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo, tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao cho vùng và cả nước. Nâng cấp, hiện đại hoá một số bảo tàng lớn, trung tâm điện ảnh, nhà hát tại Hà Nội và các đô thị lớn trong vùng.
Năm là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường; tập trung giải quyết căn bản các vấn đề môi trường có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh nhất là ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, lưu vực sông; tình trạng ngập úng, rác thải, khí thải, ô nhiễm ở các đô thị lớn; cải thiện phục hồi chất lượng môi trường nước tại lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải.
Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước. Tăng cường liên kết vùng trong bảo tồn, khai thác tài nguyên, đa dạng sinh học của các khu bảo tồn thiên nhiên, khu di sản thiên nhiên cấp quốc gia gắn với phát triển du lịch. Ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học khu vực tiếp giáp các tỉnh Trung du và Miền núi phía Bắc, vùng cửa sông Hồng, sông Thái Bình, các vùng ngập nước ven biển. Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ứng phó, giải quyết các sự cố, phục hồi môi trường vùng ven biển.
Sáu là, giải pháp và nguồn lực thực hiện quy hoạch, nhất là danh mục dự án liên kết vùng dự kiến ưu tiên đầu tư và các giải pháp thúc đẩy liên kết vùng.
Về danh mục dự án, cần ưu tiên bố trí nguồn lực cho các các công trình động lực, có tính lan tỏa, kết nối vùng như hạ tầng giao thông, hạ tầng số, hạ tầng đô thị… Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, đa dạng hoá các nguồn lực và hình thức đầu tư, trong đó chú trọng hình thức đối tác công-tư.
Thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới vượt trội, cạnh tranh quốc tế cao nhằm phát huy tối đa tiểm năng, lợi thế của vùng và tam giác động lực tăng trưởng Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh. Nghiên cứu, ban hành và thực hiện thí điểm các mô hình, cơ chế, chính sách mới về liên vùng; phát huy vai trò và khai thác hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế, cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế, hệ thống đô thị để tạo đột phá phát triển vùng.
Xem xét, quy hoạch, xây dựng một sân bay quốc tế mới
Tại hội nghị, các đại biểu đã cho ý kiến về xác định các vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết, các khâu đột phá phát triển, cơ cấu lại mô hình tăng trưởng của vùng; định hướng tổ chức không gian phát triển của vùng; định hướng, giải pháp về phát triển ngành, lĩnh vực, trọng tâm là kết cấu hạ tầng liên kết vùng; định hướng, giải pháp về phát triển văn hóa-xã hội; giải quyết điểm nghẽn về chất lượng nguồn nhân lực; giải pháp và nguồn lực thực hiện quy hoạch, danh mục dự án liên kết vùng ưu tiên đầu tư, giải pháp về cơ chế, chính sách liên kết vùng để thúc đẩy hợp tác phát triển vùng có hiệu quả.
Nhấn mạnh thêm một số nội dung, Thủ tướng nêu rõ, cùng với vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng có vị trí, vai trò đặc biệt, đóng góp trên 50% GDP của cả nước, do đó quy hoạch phải phát huy, khai thác tối đa tiềm năng rất khác biệt, cơ hội rất nổi trội, lợi thế cạnh tranh rất rõ của vùng.
Quy hoạch phải đi trước một bước với tư duy phải đột phá, tầm nhìn phải chiến lược và có tính ổn định, lâu dài; tích hợp, kết nối quy hoạch của các địa phương với quy hoạch vùng, quy hoạch quốc gia.
Thủ tướng phân tích, chỉ rõ thêm một số đặc điểm nổi bật của vùng cần nhấn mạnh thêm trong Quy hoạch để khai thác, phát huy mạnh mẽ.
Thứ nhất, vùng có Hà Nội nghìn văn năm hiến, anh hùng, nền văn minh lúa nước.
Thứ hai, vùng có lợi thế là cửa ngõ kết nối Trung Quốc-ASEAN bằng cả đường bộ và đường biển, trong đó con đường qua cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh) là đường kết nối ngắn nhất (khoảng 500km) giữa Vùng Đồng bằng sông Hồng với vùng kinh tế phát triển năng động nhất Trung Quốc. So với các vùng khác trên cả nước, Đồng bằng sông Hồng cũng gần khu vực Đông Bắc Á nhất. Do đó, phải xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc về an ninh quốc phòng và phòng tuyến hợp tác và cạnh tranh về phát triển kinh tế.
Thứ ba, truyền thống văn hóa, lịch sử, tâm linh với các di sản rất phong phú. Thủ tướng lấy ví dụ, toàn bộ các di tích lịch sử-văn hóa gắn với nhà Trần đều ở nơi đây.
Thứ tư, vùng có các dòng sông là nguồn tài nguyên quý giá song đang bị ảnh hưởng mạnh.
Thứ năm, vùng có địa hình, phong cảnh của khu vực rất đa dạng, đầy đủ rừng núi sông biển… để phát triển đa dạng các lĩnh vực.
"Đi đối với tiềm năng, lợi thế, cơ hội này là những chương trình, dự án cụ thể và các cơ chế, chính sách phù hợp", Thủ tướng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Thủ tướng chỉ rõ những khó khăn, mâu thuẫn, thách thức và hướng hóa giải.
Theo đó, vùng có diện tích nhỏ nhưng dân số lớn, mật độ dân số lớn nhất cả nước, do đó, phải tiến hành đô thị hóa, khai thác không gian ngầm như tàu điện ngầm, đường sắt trên cao…
Cùng với đó, vấn đề môi trường, các dòng sông bị ô nhiễm cần có giải pháp xử lý. Về nhân lực, vùng phải dẫn dắt, điều phối trong đào tạo nhân lực chất lượng cao cho cả nước.
Đồng thời, vùng có tiềm năng, cơ hội, khác biệt lớn nhưng cơ chế, chính sách còn hạn hẹp; ngoài Hà Nội, Hải Phòng có cơ chế đặc thù, thí điểm thì 9 tỉnh còn lại chưa có. Do đó, phải có cơ chế, chính sách phù hợp.
Về vấn đề nguồn lực, Thủ tướng cho rằng phải lấy nguồn lực bên trong (gồm con người, thiên nhiên và truyền thống lịch sử- văn hóa, với cơ chế, chính sách phù hợp) là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định; nguồn lực bên ngoài (FDI, vốn vay, công nghệ, quản trị, đào tạo nhân lực, tham khảo kinh nghiệm, thể chế của quốc tế) là quan trọng và đột phá.
Thủ tướng yêu cầu làm rõ hơn những động lực tăng trưởng mới, như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; chuyển đổi năng lượng mới, phát triển ngành công nghiệp tái tạo (nắng, gió, Hydrogen); phát triển hệ sinh thái để phát triển kinh tế nông nghiệp trên cơ sở phát huy văn minh lúa nước; phát triển công nghiệp có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở khai thác hiệu quả quỹ đất, các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình có thể nghiên cứu triển khai lấn biển để tạo không gian phát triển, quỹ đất mới.
Thủ tướng nhấn mạnh liên kết vùng là một trong những đột phá, động lực tăng trưởng mới, cùng với liên kết các vùng, liên kết với cả nước và liên kết quốc tế. Do đó, cần phát huy tinh thần chủ động, tự lực, tự cường, không địa phương nào làm thay địa phương nào, nhưng không thể không liên kết, đặc biệt là liên kết giao thông.
Riêng về hàng không, Thủ tướng cho rằng khu vực phía bắc đồng bằng đã có 3 sân bay (Nội Bài, Vân Đồn, Cát Bi), có thể nghiên cứu kỹ lưỡng để xem xét, quy hoạch, xây dựng một sân bay quốc tế mới tại khu vực phía nam đồng bằng sông Hồng.