01.
Cuộc đối thoại "nghiêm trọng và căng thẳng
Đó là một buổi sáng mùa hè nóng nực ở Đài Bắc, khi một số quan chức của Viện Mỹ tại Đài Loan (AIT), gặp các nhà quản lý hàng đầu của các công ty công nghệ lớn, nhà cung cấp chính cho Apple.
Chuyến thăm này không hề giống với các chuyến thăm trước đó, khi các quan chức Mỹ liên tục dừng lại để nghe điều gì đang xảy ra trong ngành công nghiệp. Lần này, họ cắt hết các phần trao đổi và đưa ra một câu hỏi thẳng thừng ngay sau khi ngồi xuống: "Tại sao các bạn không chuyển chuỗi sản xuất ra khỏi Trung Quốc?"
"Tại sao các ngài không chuyển dịch nhanh hơn?"
Những người tham dự mô tả cuộc đối thoại rất "nghiêm trọng và căng thẳng". "Chúng tôi cảm thấy lo lắng. Họ hỏi nhiều câu hỏi mà chúng tôi cũng không rõ chúng tôi có trả lời được không", một người thuật lại.
Nhưng thông điệp rất rõ ràng: Chính phủ Mỹ muốn công ty của ông tách khỏi Trung Quốc, người này nói thêm.
Các quan chức Mỹ cũng gặp gỡ một số công ty sản xuất chip hàng đầu Đài Loan đang cung cấp sản phẩm cho ông lớn viễn thông Trng Quốc Huawei, mà Washington vẫn cáo buộc là gián điệp cho Bắc Kinh.
Cuộc gặp, dường như là một nỗ lực để lôi kéo những công ty này về phía Mỹ trong cuộc chiến công nghệ leo thang Mỹ - Trung, nhiều nguồn tin nói với Nikkei.
"Họ ở đây để chắc chắn rằng, chúng tôi hiểu rõ về quy định kiểm soát xuất khẩu của Mỹ và cho chúng tôi biết lập trường của Mỹ về Huawei. Nhưng với chúng tôi, những lời này như là cảnh cáo", một nguồn tin trong ngành công nghệ sản xuất chip nói.
Với những nhà quản lý trong ngành điện tử, cuộc gặp là một tín hiệu nữa về cuộc chiến công nghệ giữa 2 cường quốc hàng đầu thế giới đã đạt đến một mức căng thẳng mới. Cuộc chiến này bắt đầu từ năm 2016 với lệnh trừng phạt với công ty thiết bị viễn thông ZTE của Trung Quốc, và ngày càng nghiêm trọng khi Washington tăng cường sức ép lên các công ty Trung Quốc.
Một nguồn tin thân tín với AIT từ chối xác nhận các thông tin cụ thể về cuộc gặp nhưng cho biết, việc liên lạc với các công ty Đài Loan về tái cấu trúc chuỗi cung ứng và thích nghi với quy định kiểm soát xuất khẩu là việc làm thường xuyên.
Trong vòng 1 năm, Mỹ đã xem xét quy tắc kiểm soát xuất khẩu 3 lần, nhắm đến Huawei, các thay đổi này ảnh hưởng đến cả các nhà cung cấp trong và ngoài nước Mỹ cho các công ty Trung Quốc.
"Washington đang vũ khí hóa chuỗi cung ứng công nghệ, ví dụ như các chất bán dẫn, nhằm làm chậm lại tham vọng công nghệ của Trung Quốc", Alex Capri, nhà nghiên cứu của Quỹ Hinrich đặt tại Singapore cho hay.
Thông điệp, được các nhà quản lý Đài Loan tiếp nhận, là rất cấp bách: chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc, giảm liên kết với các khách hàng Trung Quốc như Huawei, và đứng cùng phía với Mỹ, hoặc sẽ phải đối mặt với viễn cảnh tồi tệ nhất là lọt vào tầm ngắm tiếp theo của Washington.
02.
Cuộc đại "di cư"
Ý tưởng đưa chuỗi cung ứng công nghệ đã phát triển ở Trung Quốc hơn 2 thập kỷ qua vẫn còn chưa hề được nghĩ tới trong 2 năm trước. Nhưng áp lực từ chính quyền Tổng thống Trump đã biến điều này thành sự thực, với các công ty từ Apple đến Google đã chuyển từ Trung Quốc đến Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan và Malaysia trong 36 tháng qua.
"Nói chung, các công ty công nghệ đa quốc gia sẽ không muốn chọn bên trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, nhưng họ vẫn phải chuẩn bị cho kịch bản tồi tệ hơn có thể xảy ra", Chiu Shih-fang, nhà phân tích chuỗi cung ứng công nghệ cấp cao tại Viện Nghiên cứu Kinh tế Đài Loan nói với Nikkei.
Ngành công nghiệp đã bắt đầu một cuộc "di cư" chưa từng thấy trong hai đến ba thập kỷ gần đây. Theo số liệu của chính phủ, khoảng 2.000 công ty Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc trong tất cả các lĩnh vực - bao gồm nhiều nhà cung cấp công nghệ chính - đã chỉ ra kế hoạch đa dạng hóa sản xuất khỏi Trung Quốc. Các công ty công nghệ, đặc biệt là các nhà cung cấp thương hiệu Mỹ như Apple, đang xem xét chuyển từ 15% đến 30% tổng sản lượng của họ ra khỏi Trung Quốc.
Nhật Bản đã khởi động một chương trình trợ cấp 220 tỷ Yen (2,08 tỷ USD) để khuyến khích các công ty đưa ngành sản xuất về nước và phân bổ thêm 23,5 tỷ Yen để tài trợ cho việc chuyển sản xuất sang Đông Nam Á. Tính đến tháng 7 năm nay, gần 90 công ty Nhật Bản đã được chấp thuận trợ cấp, trong khi hơn 1.600 công ty đã nộp đơn xin trợ cấp. Đến lượt mình, Đài Loan đã thực hiện chiến dịch chuyển sản xuất trở lại Đài Loan với việc giảm thuế và lãi suất cho vay đặc biệt kể từ cuối năm 2018.
Apple bắt đầu sản xuất hàng loạt AirPods không dây tại Việt Nam từ đầu năm nay và có kế hoạch mang nhiều sản phẩm hơn đến quốc gia Đông Nam Á.
03.
Chi phí đánh đổi
Tuy nhiên, chi phí để chuyển nhà máy khỏi Trung Quốc là rất lớn.
Đối với ngành công nghệ toàn cầu, câu hỏi đặt ra là liệu chuỗi cung ứng thay thế xuất hiện có thể phù hợp với hiệu quả của chuỗi cung ứng sản xuất hơn 200 triệu chiếc iPhone mỗi năm ở Trung Quốc hay không.
Đối với các công ty công nghệ, Trung Quốc còn là thị trường phát triển nhanh nhất. 20% tổng doanh thu của Apple, hơn 20% doanh thu của Intel và 60% doanh thu của Qualcomm đến từ Trung Quốc.
Quốc gia này có cơ sở hạ tầng được tổ chức tốt, nguồn lao động có tay nghề cao mà không quốc gia nào có thể sánh kịp.
Maurice Lee, một giám đốc điều hành tại Unimicron Technologies cho biết việc chuyển sản xuất ra khỏi đất nước vẫn là một thách thức vô cùng đối với công ty của ông và các công ty khác. "Ở Trung Quốc, chúng tôi có một hệ sinh thái hoàn chỉnh và chúng tôi rất gần với tất cả các nhà cung cấp... Chuyển đến bất kỳ nơi nào khác có nghĩa là tất cả các quy trình , công tác hậu cần cần phải được thiết kế lại, và điều đó cũng có nghĩa là chúng tôi phải đào tạo lại toàn bộ công nhân và cũng có nghĩa là tăng chi phí.", Lee, cũng là Chủ tịch Hiệp hội vi mạch in Đài Loan, cho biết.
Ông Tung, Công ty công ty sản xuất điện tử Pegatron (Đài Loan) cho biết: "Sản xuất công nghệ sẽ phải đối mặt với một sự thay đổi cơ bản nếu chuyển dời ra khỏi Trung Quốc". Công ty của ông, trước đây chỉ tập trung sản xuất ở Trung Quốc và Đài Loan, đã xây dựng các cơ sở sản xuất mới ở Indonesia và Việt Nam trong 2 năm qua và sắp xây dựng một cơ sở mới ở Ấn Độ.
"Trước đây, chỉ mất hai giờ để huy động việc vận chuyển linh kiện từ các tỉnh khác của Trung Quốc. Nhưng trong tương lai, sẽ mất ít nhất một đến hai tuần chờ đợi khi chuỗi cung ứng trở nên phi tập trung bên ngoài Trung Quốc. Đây là một thực tế mới mà tất cả chúng ta phải đối mặt và thích nghi", Tung nói thêm.
Tuy nhiên, ngay cả trước chiến tranh thương mại, một số nhà cung cấp đã tìm cách chuyển một số hoạt động sản xuất sang Đông Nam Á trong bối cảnh chi phí gia tăng và tình trạng thiếu lao động ở Trung Quốc. Trong 4 - 5 năm qua, các nhà sản xuất ngày càng khó thu hút đủ công nhân trong dây chuyền sản xuất vào mùa cao điểm. Thiếu công nhân, giá đất và tiền lương tăng cao đã trở thành vấn đề đau đầu chung của các nhà cung cấp trong những năm gần đây, và đã thúc đẩy các công ty tìm kiếm các giải pháp thay thế bên ngoài Trung Quốc.
Kao nói: "Tuy nhiên, không có quốc gia nào có thể thay thế hoàn toàn Trung Quốc. Nhưng căng thẳng leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc và sau đó, COVID-19, đã thúc đẩy tất cả các nhà cung cấp chuyển dịch một số hoạt động sản xuất sang các nước khác và bước ra khỏi vùng an toàn của họ ... Đây là động thái mới, không thể thay đổi được".
Các ngành công nghiệp trong các lĩnh vực và những người theo dõi thị trường đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới nhưng không nhiều người cho rằng sự cạnh tranh và căng thẳng địa chính trị giữa Washington và Bắc Kinh sẽ giảm xuống, dù cho ai trở thành tổng thống Mỹ tiếp theo.
Martijn Rasser, thành viên cấp cao của chương trình công nghệ và an ninh quốc gia tại Trung tâm An ninh mới của Mỹ, cho biết Mỹ và Trung Quốc không có khả năng quay trở lại "những ngày xưa tốt đẹp".