Kỳ 1: Tòa cung điện trong lòng đất của người chết
Ngôi mộ… bí ẩn
Những cuộc trò chuyện với chuyên gia mộ cổ Tăng Bá Hoành (nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Dương), thường được nghe ông kể về một ngôi mộ xây bằng gạch, có tuổi ngót 2.000 năm.
Ông kể rằng, giữa cánh đồng mênh mông của huyện Kim Thành (Hải Dương), nổi lên một gò đất, trông như một ngọn đồi. Đào sâu xuống lớp đất đó chừng 4-5m, sẽ hiện ra một công trình mộ cổ khổng lồ, như một tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ dưới lòng đất.
Ông Hoành khẳng định rằng, đây sẽ là ngôi mộ cổ lớn nhất Việt Nam từ trước đến nay và phát hiện này sẽ gây chấn động không những trong nước mà còn khắp thế giới. Cũng theo nhận định của ông, nếu ngôi mộ còn nguyên vẹn, thì có thể đào lên được cả xe tải báu vật.
Tuy nhiên, tôi nhiều lần gặng hỏi ngôi mộ đó ở đâu, ông Hoành cứ lấp la lấp lửng, không nói rõ.
Ông bảo rằng: “Với trình độ kỹ thuật của nước ta, hiện chưa đủ sức bảo tồn, nên cứ để lăng mộ nằm yên dưới lòng đất, để sau này con cháu chúng ta, với phương tiện khoa học hiện đại, nguồn lực tài chính dồi dào, sẽ khai quật nghiên cứu”.
Đã có vài lần, tôi tìm về Kim Thành (Hải Dương), đến từng xã để dò hỏi, xem xã nào có gò đống khổng lồ và ngôi mộ Hán như cung điện dưới lòng đất, song chỉ nhận được những cái lắc đầu của các lãnh đạo xã.
Thực ra, họ không biết gì cả, chứ không phải họ giấu giếm. Mỗi lần đi qua vùng Kim Thành, tôi luôn dõi mắt ra cánh đồng để tìm một “ngọn núi”. Tuy nhiên, vẫn chẳng biết nó ở đâu. Ngôi mộ cứ ám ảnh tâm trí tôi mãi.
Sau hơn 30 năm vùi đầu vào các công trình mộ cổ để khai quật, nghiên cứu, ông Hoành khẳng định với tôi rằng: “Vùng đất Hải Dương là một nghĩa địa mộ cổ khổng lồ, đào đâu cũng thấy mộ cổ”.
Điều ông Hoành khẳng định thật lạ! Việc tìm ra một ngôi mộ cổ, dù ở đâu trên đất nước này, cũng là một phát hiện quan trọng, bởi lấy đâu ra lắm mộ như thế.
Số người chết đi trong hàng ngàn năm nay thì tính bằng con số hàng triệu, nhưng việc lăng mộ, xương cốt giữ được trong lòng đất hàng trăm, hàng ngàn năm thì làm gì có nhiều. Chưa kể, trong những ngôi mộ cổ đó, có rất nhiều cổ vật quý.
Với nền khảo cổ học thế giới, việc phát hiện ra một ngôi một ngàn tuổi, cũng chấn động lắm. Nhưng rồi, trong nhiều ngày đi theo ông Hoành “đào mồ cuốc mả”, tôi mới tin rằng, vùng đất Hải Dương đúng là một “nghĩa địa mổ cổ” khổng lồ.
Trong lòng đất còn ẩn chứa những ngôi mộ cổ cực kỳ hoành tráng, niên đại vô cùng sớm.
Trong một tài liệu công bố về ngành khảo cổ học Hải Dương, sau khi “kể công” hàng loạt cuộc khai quật quan trọng, đặc biệt là cuộc khai quật ngôi mộ Hán khổng lồ, rộng cả ngàn mét vuông ở thôn Vũ Thượng (xã Ái Quốc, Nam Sách), các nhà khoa học đã viết thêm: “Đây không phải là ngôi mộ lớn nhất thời Bắc thuộc, tại Kim Thành còn một ngôi mộ 4 cuốn, lớn gấp rưỡi ngôi mộ Vũ Thượng”.
Thông tin khoa học này lại làm tôi sốt ruột, muốn biết ngôi mộ cổ, có lẽ là vĩ đại nhất Việt Nam đó ở đâu.
Mãi sau này, không còn nghiên cứu đào bới mồ mả gì nữa, ông Hoành mới điện thoại cho tôi, tiết lộ địa chỉ ngôi mộ khổng lồ mà ông và các cán bộ Bảo tàng Hải Dương giấu giếm kỹ lưỡng hàng chục năm qua.
Ý tưởng của ông Hoành là mong muốn cơ quan chức năng, chính quyền, đoàn thể, nhân dân cùng vào cuộc để bảo vệ ngôi mộ cổ khổng lồ, chứ bỏ hoang nó giữa cánh đồng, trong hoàn cảnh đồn điền đổi thửa, cơ giới hóa ruộng nương, cũng không ổn.
Nhận được địa chỉ nơi có “cung điện” lớn nhất Việt Nam dưới lòng đất, tôi lập tức tìm về Kim Thành, Hải Dương.
Liên Hòa là xã xa nhất của huyện Kim Thành, giáp với Hải Phòng. Vùng đất này bị cắt xẻ ngang dọc bởi các dòng sông chi chít. Người xưa, nhất là giới quan lại giàu có thường chọn vùng đất nhiều sông ngòi để lập trang ấp, thành quách.
Khi đó phương tiện đi lại chủ yếu là tàu thuyền. Ông Hoành thường nói vui, xưa kia, các con sông như những xa lộ ngày nay, nên ở cạnh sông sẽ thuận tiện cho việc đi lại.
Theo chỉ dẫn của ông Tăng Bá Hoành, đến UBND xã Liên Hòa, nhìn về hướng Đông sẽ thấy một gò đất cao như quả núi, nơi đó, có ngôi mộ Hán khổng lồ.
Theo lời kể của ông Hoành, cách nay hơn chục năm, trong lần về một ngôi chùa ở xã này để đọc bia đá chữ Hán thời Trần, ông thấy trước mặt UBND xã có một gò đất rất cao, vượt lên khỏi ngọn tre.
Nhìn gò đất rộng cả ngàn mét vuông ấy, ông Hoành đã nghĩ ngay đến một ngôi mộ Hán. Ông đã vạch cỏ trèo lên “ngọn đồi” này.
Thuê các thanh niên trong làng đào thám sát mấy hố nhỏ từ phía đỉnh gò xuống, ông Hoành đã phát hiện dưới gò đất là một ngôi mộ Hán khổng lồ, có tới 4 vòm cuốn.
Ngôi mộ Hán được coi là lớn nhất không những Hải Dương mà cả Việt Nam là ngôi mộ đã được khai quật, đang trưng bày ở Bảo tàng Hải Dương, song ngôi mộ đó chỉ có 3 vòm cuốn.
Ngôi mộ ông Hoành phát hiện ở xã Liên Hòa có tới 4 vòm cuốn, như vậy, theo kinh nghiệm của ông Hoành, nó sẽ lớn gấp rưỡi ngôi mộ hiện trưng bày ở Bảo tàng Hải Dương.
Thấy rằng, đây là trông trình mộ cổ cực kỳ quý hiếm, hoành tráng, có tuổi ngót 2.000 năm, ông Hoành đã gặp các lãnh đạo xã và đề nghị họ trông nom, bảo tồn cẩn thận.
Vài năm sau, ông Hoành nghỉ hưu, và thông tin về ngôi mộ cổ đặc biệt lớn này được chuyển cho lãnh đạo kế cận. Chính vì thế, trong các báo cáo khảo cổ học hàng năm, công trình mộ cổ khổng lồ này vẫn thường được nhắc đến với ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Phá “cung điện” để… đắp đường
Tôi đứng trước cửa trụ sở UBND bỏ hoang cũ kỹ, rêu mốc của xã Liên Hòa và nhìn về phía Đông để tìm một “ngọn núi”, như lời ông Hoành mô tả.
Thế nhưng, tuyệt nhiên chẳng thấy có đồi núi, rừng cây, hay tường thành nào cản tầm mắt. Trước mặt tôi, chỉ là một cánh đồng mênh mông.
Liệu ông Tăng Bá Hoành nhớ nhầm hướng? Tôi lại lang thang một vòng ra phía Tây, rồi phía Nam, phía Bắc của trụ sở UBND xã Liên Hòa, cả trụ sở cũ và trụ sở mới, song chỉ thấy đồng lúa bát ngát, xóm làng bình yên.
Tôi gặng hỏi người già, trẻ nhỏ, về một “ngọn núi” trong địa bàn xã, song ai cũng cười, bảo: “Anh tìm núi làm gì, ở đồng bằng thì sao tìm được núi?”.
Chỉ cần nhìn bằng mắt thường, cũng rõ ràng chẳng thấy “ngọn núi” nào. Tôi gọi điện trao đổi qua lại, song ông Hoành vẫn khẳng định như đinh đóng cột rằng nó ở phía đông của UBND xã Liên Hòa. Thôi thì cứ lấy cái trụ sở cũ kỹ đó làm mốc, tôi thử cuốc bộ về hướng Đông.
Đi bộ xuyên qua cánh đồng chừng 300m, thì gặp một bãi đất trống, rộng bằng cái sân bóng đá cỡ nhỏ. Một góc bãi đất trống là đống rác bốc mùi hôi thối, góc kia của bãi đất là một cái hồ lớn, bèo ken đặc, cỏ mọc um tùm, trùm kín.
Đang loay hoay chụp ảnh bãi đất, thì có một anh nông dân đi qua. Tôi liền chỉ vào bãi đất trống và cái hồ nước hỏi: “Chỗ này từng có gò đất lớn phải không anh?”.
Anh nông dân giới thiệu họ tên là Lương Văn Nhã rồi gật đầu bảo: “Chỗ này có cái đống to lắm, cao lắm, vượt cả ngọn tre, nên gọi là Đống Cao. Mấy năm trước dân làng phá đống lấy đất và gạch để làm đường rồi”.
Nghe anh nông dân Lương Văn Nhã nói vậy, tôi như chết lặng. Thế là di sản vô cùng quý hiếm, thế là một “cung điện” khổng lồ, được xác định lớn nhất Việt Nam, mà các nhà khoa học ở Hải Dương thi thoảng vẫn lôi ra khoe, báo cáo với vẻ tự hào, đã biến mất, không để lại dấu tích gì.
Nói rồi, anh Nhã dẫn tôi đến con đường cách đó không xa. Con đường đắp cao vượt khỏi mặt ruộng, rải bê tông sạch sẽ, mới toanh.
Chỉ vào con đường thẳng tắp, nối từ thôn ra đường liên xã, cắt ngang cánh đồng, anh Nhã bảo: “Dân làng chúng tôi phá Đống Cao lấy đất và gạch, đắp đủ cho con đường dài mấy trăm mét này đấy!”.
Thấy người lạ hí hoáy chụp ảnh, ghi chép, dân làng kéo đến mỗi lúc một đông. Tôi hỏi: “Các chú các bác có biết, dưới cái Đống Cao mà các chú các bác phá mất là cái gì không?”.
Người dân nơi đây, từ cụ già cho đến đứa trẻ đều không biết là cái gì. Người thì bảo đấy là cái… lò gạch để hoang, người thì bảo hầm tránh bom, hầm đánh giặc. Không một ai biết đó là một ngôi mộ Hán khổng lồ 2.000 năm tuổi.
Cụ Phí Văn Đông bảo: “Từ hồi bé xíu tôi đã thấy cái gò đống này rồi. Các cụ đời trước cũng không biết nó là cái gì. Hồi đánh Pháp, ông Nguyễn Đức Đạo và mấy cụ trong làng đào hầm trên Đống Cao để trú ẩn, thấy nhiều gạch lắm, đúng là nó xếp vòm như cái hang, như cái cống bắc qua mương nước”. Nghe cụ Đông mô tả thế, thì đúng là mộ Hán rồi.
Anh Nhã kể thêm: “Khoảng cuối năm 2004, chúng tôi thấy rất nhiều người lạ kéo đến đào Đống Cao. Có cả dân quân bảo vệ đứng bao quanh không cho ai vào xem. Khi họ kéo đi, chúng tôi tìm vào, thấy đào bới tanh bành.
Chúng tôi cũng không hiểu họ đào bới cái đống này làm gì, nhưng thấy lộ rõ mấy cái đường hầm ra ngoài”.
Khi tôi đang trò chuyện, tìm hiểu, thì một số bà, một số chị ghé vào nói thêm: “Nghe nói, họ đào được nhiều của lắm, đánh cả ôtô về chở đi cơ!”. Kiểu đồn đại đào được nhiều châu báu ở những ngôi mộ cổ thì đâu cũng có, nên không đáng tin.
Theo người dân nơi đây, một thời gian sau khi Đống Cao bị đào bới, nhân dân quyết định làm con đường liên thôn.
Không biết lấy đất ở đâu, mà Đống Cao thì lù lù ngay cạnh, nên họ kéo vào đào đất, móc gạch đắp đường. Mấy chiếc công nông được trưng tập, chở gạch và đất suốt ngày từ Đống Cao rải ra đường.
Anh Nhã kể thêm: “Không hiểu sao người ta chôn lắm gạch dưới cái đống ấy thế? Có lẽ phải đến cả trăm chuyến công nông chở mới hết gạch. Số gạch và đất đủ để đắp con đường dài mấy trăm mét cơ mà”.
Tôi trông con đường bêtông mới toe, thẳng tắp, cao vượt khỏi mặt ruộng và trông cái bãi hoang rộng mênh mông từng có gò đống, cũng mường tượng ra ngôi mộ này lớn đến cỡ nào.
Nếu thực sự đây là ngôi mộ Hán, là “cung điện dưới lòng đất”, thì chắc chắn phải có gạch múi bưởi và gạch lớn bản, có vân ở cạnh.
Tôi lò dò bới đất ven đường, chỗ không rải bêtông. Đúng như dự đoán, tôi bới lên được rất nhiều mẩu gạch có hoa văn, là dạng gạch dùng để xây mộ từ thời Bắc thuộc, khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 4.
Bọn trẻ thấy tôi săm soi tìm gạch, cũng chạy đi đào bới, tìm kiếm giúp. Dọc bờ mương, bờ ao, ven con đường đều xuất hiện những viên gạch thời Bắc thuộc.
Thế là hết. Một công trình vĩ đại cổ xưa, tồn tại trải gần 2 ngàn năm, đã biến mất trong chớp mắt, bởi sự thiếu hiểu biết, bởi sự vô ý thức của con người.
Đau lòng hơn, khi ngôi mộ đã bị phá hủy hoàn toàn, giữa thanh thiên bạch nhật, suốt nhiều ngày trời, từ mấy năm nay rồi, mà ở cách đó chỉ vài chục km, các nhà khoa học, các nhà chức trách, vẫn chưa hề hay biết, vẫn báo cáo về sự tồn tại của một công trình mộ cổ kỳ vĩ, lớn nhất từ trước đến nay.
Và cụ thể hơn nữa, vô trách nhiệm hơn nữa, là một số lãnh đạo địa phương. Họ đã biết dưới lòng Đống Cao kia, là một ngôi mộ Hán khổng lồ, là một di sản có một không hai (bởi các nhà khoa học đã cảnh báo, đã dặn dò) nhưng họ vẫn làm ngơ, hoặc có thể đã tiếp tay trong việc phá hủy hoàn toàn di sản quý giá.
Theo nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Dương, người từng trực tiếp khai quật hàng trăm ngôi mộ ngàn tuổi, ngoài những nhân vật và sự kiện được ghi trong quốc sử, dã sử, trong thần tích, các bi ký tại các đền, miếu, thì lịch sử hiện hữu rõ ràng, cụ thể và sống động nhất chính là trong các ngôi mộ còn tồn tại đến bây giờ.
Nghiên cứu những ngôi mộ, sẽ thấy được cả đời sống xã hội con người thời xưa, do đó, những ngôi mộ chính là kho tàng di sản cực kỳ to lớn.
Ông Hoành cho biết, vài chục năm trước, trên khắp các cánh đồng ở Hải Dương, đặc biệt là vùng Nam Sách, Chí Linh, Đông Triều, Kinh Môn, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Ninh Giang... có thể gặp hàng nghìn gò đống lớn nhỏ.
Giữa vùng đồng bằng sông nước, những gò đống ấy không phải do thiên tạo, mà do con người tạo nên trong lịch sử. Qua nghiên cứu mấy chục năm, ông Hoành xác định, dưới những gò đống ấy, phần lớn là những ngôi mộ xây theo kiểu Hán, có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ IX.
Những ngôi mộ đều rất lớn, có diện tích mộ phần hàng nghìn mét vuông. Gần hai nghìn năm dãi dầu mưa nắng mà các gò đống vẫn còn cao tới 5-6m, thậm chí cả chục mét, chứng tỏ xưa kia, các gò đống này đều to như quả núi.
Điều đặc biệt, trong các hầm mộ vòm cuốn xây bằng gạch, hoặc dựng bằng gỗ, rộng hàng trăm mét vuông, thường chứa vô số đồ tùy táng bằng gốm thô và đồ đồng. Những ngôi mộ của quan lớn, giàu có xa hoa có thể có hàng tấn cổ vật.
Bản thân ông Hoành đã từng khai quật được hàng chục kg tiền đồng, nhất là tiền Ngũ thù thời Đông Hán.
Để xây đắp được những ngôi mộ này, người ta phải chuẩn bị hàng chục, thậm chí hàng trăm khối gạch lớn, đào đắp hàng vạn, đến cả triệu khối đất cho một ngôi mộ. Ta cứ tưởng tượng, việc xây dựng thành đắp lũy xưa kia khổ cực, khó nhọc thế nào, thì đắp mộ cho quan lại người Hán cũng thế.
Khai quật những ngôi mộ này, các nhà khảo cổ học có thể thấy rõ tình hình kinh tế xã hội, văn hóa đương thời đầu công nguyên một cách chính xác. Tất cả các kỹ thuật, công sức xây dựng đều do người Việt làm ra, do đó, nó là sản phẩm của lịch sử một thời.
Trải qua hàng nghìn năm, những ngôi mộ nói trên vẫn tồn tại nhờ tín ngưỡng và tinh thần tôn trọng lịch sử.
Do đó, ngày nay, khi đất nước chúng ta có nhiều điều kiện hơn lịch sử, lẽ ra phải bảo tồn tốt hơn, nhưng thật không ngờ, chỉ vài chục năm nay, hàng trăm, thậm chí cả ngàn ngôi mộ cổ, khổng lồ và đẹp đẽ như những "cung điện trong lòng đất" ở Hải Dương đã bị huỷ hoại.
Còn tiếp…