Những trang sức không thể thiếu của các phi tần
Với sức nóng của bộ phim Diên Hi công lược, phải nói đến nhan sắc của dàn cung tần mỹ nữ đều xếp vào hàng cực phẩm. Chắc sẽ không có ít người thắc mắc cách "mix" đồ có đôi phần "loằng ngoằng" của những vị phi tần xinh đẹp ấy.
Đó là những trang sức vô cùng quan trọng và là bắt buộc với những phụ nữ trong hoàng tộc nhà Thanh.
Nhẫn móng tay (hộ giáp)
Nếu là fan của những phim cung đấu, hoàng cung hẳn không ai là không biết những chiếc móng xuất hiện trên tay các mỹ nhân cổ trang.
Hầu như những chiếc móng luôn mang vẻ sang trọng và quyền quý cho người diện, từ chạm khắc hoa văn đến đính hạt lấp lánh. Phụ kiện này thực tế đã xuất hiện rất lâu, từ tận thời Chiến quốc.
Đến thời nhà Thanh, hộ giáp lại được nâng tầm và gắn liền với phi tần mỹ nữ chốn cung đình. Nó không còn món đồ bảo vệ móng đơn thuần mà là dấu hiệu phân cấp địa vị, quyền lực.
Hoàng hậu, quý phi dùng hộ giáp bằng vàng, bạc, ngọc trai, mai rùa,... Các phi tần thứ bậc thấp thì dùng hộ giáp bằng đồng, ngà, men sứ...
Họa tiết chạm khắc trên hộ giáp cũng vô cùng tinh xảo, hoàng hậu chạm khắc hình phượng hoàng. Hộ giáp của Thái hậu lại khắc hình chữ "vạn", chữ "thọ". Một số hộ giáp còn có thể uốn cong theo khớp ngón tay.
Dây đeo trên trang phục (áp khâm)
Món đồ hay được các nương nương đeo trước ngực có tên gọi là Áp khâm - một loại trang sức lưu hành dưới thời Minh Thanh, làm từ những chất liệu đá quý như hạt châu, ngọc hoặc tơ tằm, kim loại tùy vào địa vị, thân phận của chủ nhân. Áp khâm được đeo trên chiếc nút cài thứ hai tính từ cổ xuống của vạt áo bên phải.
Những mỹ nhân trong Diên Hi công lược cũng đeo áp khâm khi diện Kỳ bào. Món phụ kiện này được kết từ nhiều hạt tròn, có thể dùng làm một loại vòng tay, tùy mục đích sử dụng.
Ban đầu, Áp khâm được làm hoàn toàn từ kim loại, thường là bạc, dài 28cm, nặng 40g. Phần trên khép kín gọi là hoa lam, bên trong hoa lam có khi được đặt thêm hương liệu như trầm hương, đàn hương, long não,...
Phần đuôi kiểu sợi chuỗi buông tỏa gọi là ngân liên. Về sau dần dần xuất hiện kiểu áp khâm chuỗi hạt và có phần đuôi làm từ tơ. Bên cạnh việc làm đồ trang sức, Áp khâm còn có một công dụng để giữ cố định cho vạt áo không bị xộc xệch khi di chuyển, giữ sự kín đáo tinh tế cho người dùng.
Kiềng đeo cổ
Là cái kiềng đeo trên cổ Triều phục và nó cũng là một điểm để phân giai cấp trong Hậu cung,giữa những cấp bậc khác nhau.
Hoàng hậu có 11 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây sức đá Ngọc lam.
Hoàng quý phi có 7 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây cũng sức San hô.
Các quý phi sẽ diện màu dây là Kim hoàng, còn lại như Hoàng quý phi.
Thứ "mỹ phẩm" kinh hãi nhưng vẫn được phụ nữ Trung Hoa xưa ưa chuộng
Từ lâu, ngoài những bí ẩn về cuộc đời của những nữ nhân Trung Hoa cổ đại thì chuyện sinh hoạt đời thường như tắm gội của họ cũng khiến không ít người tò mò.
Và có một sự thật bất ngờ rằng, họ, những nữ nhân "rườm rà" với những bộ cánh thừa vải rất thường xuyên tắm gội.
Vào đầu thời Tần, những người phụ nữ Trung Hoa thực hiện "ba ngày một lần gội, năm ngày một lần tắm", cho đến thời Hán thì thậm chí họ còn có một ngày riêng để tắm, được gọi là "hưu mộc", 5 ngày một lần, vào ngày này, giống hệt như một ngày nghỉ trong tuần, họ sẽ gác lại hết công việc mà dành phần lớn thời gian cho tắm rửa.
Đến thời Đường thì thời gian được kéo dài ra thành 10 ngày.
Tắm thì muôn đời phải dùng nước, nhưng thay vì có nước máy, nước giếng như ngày nay, thì phụ nữ Trung Hoa cổ đại dùng nước ở các sông hồ, chỗ nước trong mà lấy nước tắm hoặc gội.
Chưa kể, cũng từ việc tắm rửa ở ao hồ như vậy, nên vô tình họ đã phát hiện ra loại "xà phòng" vô cùng tốt cho da đó chính là đất sét.
Họ thường dùng đất sét, chà xát lên da sau đó rửa sạch bằng nước. Nhưng đất sét chỉ có thể làm sạch những vùng da "già" như tay chân, vì thế da mặt họ không thể dùng đất sét để rửa.
Thay vào đó, họ sử dụng bùn trong các ao hồ, ủ qua đêm để loại bỏ các chất gây hại xong sử dụng để rửa mặt. Thậm chí họ còn dùng loại bùn ủ giàu chất "kiềm" này để giặt đồ và… gội đầu.
Ảnh minh họa
Đến thời nhà Đường, thời đại sản sinh ra nữ hoàng duy nhất của Trung Hoa là Võ Tắc Thiên, người ta đã sáng chế ra một cách khác để làm sạch thân thể khi tắm rửa gội đầu đó là dùng tro của bồ kết.
Họ sớm phát hiện ra rằng, bồ kết có tác dụng rất tốt cho mái tóc, lại sản sinh ra nhiều bọt khi sử dụng vì vậy vào tháng 10 hàng năm họ hay đi thu hoạch trái bồ kết khô về nghiền nát, sau đó đun chín rồi trộn với bột mì và hương liệu, vo thành từng viên rồi mang phơi khô một lần nữa, xong cứ mỗi khi tắm hay gội đầu thì mang ra sử dụng.
Có thể nói tìm ra công dụng quả bồ kết quả là một phát minh vĩ đại của phụ nữ xưa, bởi lẽ cho đến tận ngày nay, quả bồ kết vẫn là sự lựa chọn của rất nhiều phụ nữ yêu mái tóc đen mượt truyền thống!
Về sau, họ còn cải tiến tro của bồ kết để có thể dùng luôn vào việc đánh răng.
Tới thời nhà Tống thì phụ nữ sử dụng sáp ong nấu chảy, xong dùng hương liệu từ tinh dầu của các loại hoa trộn vào, đổ hỗn hợp trên vào khuôn đợi chúng đông đặc lại rồi sau đó cứ thể mà sử dụng như xà phòng ngày nay.
Thậm chí, về sau, người Trung Hoa cổ đại còn phát minh ra loại "xà phòng" khác có tên là "tảo đậu", bằng cách lợi dụng các enzim tiêu hóa trong tuyến tụy của loài lợn để gây nên hiệu ứng bọt.
Cụ thể là họ tách mỡ hết bao tụy tạng heo, rửa sạch máu bầm, rồi nghiền nát như cháo, sau đó trộn với bột đậu cùng hương liệu, vo viên nhỏ và phơi khô.
Rồi nếu muốn tắm hoặc giặt giũ họ chỉ cần dùng một viên chà xát lên da hoặc ngâm trong nước rồi sử dụng như "xà phòng" ngày nay.
Loại tảo đậu này có công dụng rất tốt cho da, kháng khuẩn, làm sạch quần áo thậm chí là có mùi hương tự nhiên rất dễ chịu dù cho được lấy từ nội tạng lợn. Nhưng vì làm ra không dễ nên ngày đó, giá thành của loại "xà phòng cổ đại" này hơi cao.
(Nguồn: Kknews.cc, Theepochtimes.com, Sponno)