Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về điều kiện nghỉ ốm hưởng nguyên lương. Tuy nhiên, thực tế, người lao động vẫn có thể hưởng chế độ này khi đáp ứng đủ các điều kiện:
Thứ nhất, thuộc diện nghỉ ốm đau . Khoản 1, điều 3 Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH quy định, người lao động được hưởng chế độ ốm nếu: Bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động hoặc điều trị thương tật, bệnh tật tái phát do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền; Phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền; Lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con mà thuộc một trong các trường hợp nêu trên.
Thứ hai, nghỉ ốm trùng với ngày nghỉ phép năm. Để đáp ứng điều kiện này, thay vì xin nghỉ ốm, người lao động xin nghỉ phép năm.
Về thời gian nghỉ, để hưởng chế độ ốm đau nguyên lương, người lao động phải có thời gian nghỉ ốm trùng với thời gian nghỉ phép năm.
Theo khoản 1, điều 111 Bộ Luật Lao động 2012, người lao động có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng lao động được nghỉ hàng năm với: 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường; 14 ngày làm việc đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc ở những nơi có có điều kiện sinh sống khắc nghiệt hoặc là lao động chưa thành niên, người khuyết tật; 16 ngày làm việc đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt khắc nghiệt.
Với những người làm việc dưới 12 tháng thì thời gian nghỉ hàng năm được tính theo tỉ lệ tương ứng với số thời gian làm việc. Nư vậy, khi bị ốm đau, bệnh tật, người lao động có thể nghỉ ốm hưởng nguyên lương trong những ngày nêu trên.
Cũng theo quy định này, do người lao động nghỉ vào thời gian nghỉ phép năm nên sẽ hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động mà không bị trừ tỉ lệ lương như trường hợp nghỉ việc hưởng BHXH.
Mức hưởng bằng nguyên giá trị lương như khi người lao động đi làm, nghĩa là bằng 100% lương.