Bạn đã bao giờ về quê và bị gà đuổi hay chưa? Quả là một khoảnh khắc cười ra nước mắt khi chúng ta, đường đường là một loài linh trưởng thông minh nhất hành tinh, lại bị một con chim chạy cấp thấp rượt cho té khói.
Nhìn thấy cảnh đó, có lẽ tổ tiên chúng ta cũng phải lắc đầu thất vọng. Hàng ngàn năm về trước, khi còn ở trong một xã hội săn bắn hái lượm, người cổ đại đã nuôi những "con gà" khổng lồ ở ngay mảnh sân trước hang nhà mình.
Chúng là những con cassowary cao tới 1 mét 7, sở hữu đôi chân cứng như sắt, với ba ngón có móng vuốt sắc như dao găm. Những con chim quỷ này có thể nhảy cao tới 2 mét mốt và chạy với vận tốc 50 km/h.
Ba loài hậu duệ của chim cassowary cổ đại vẫn còn sống ở Úc cho tới ngày nay. Và chúng thì không khiến tổ tiên của mình phải thất vọng khi vẫn giữ vững được danh hiệu loài chim đáng sợ nhất hành tinh trong Sách Kỷ lục Guinness Thế giới.
Nếu so sánh về kích thước, chim cassowary nhỏ hơn hai loài họ hàng của chúng là chim emu và đà điểu. Tuy nhiên, điểm đáng sợ nhất của loài chim này chính là kỹ năng chiến đấu. Khi bị đe dọa, chim cassowary có thể nhảy lên cao và tung ra một cú quét chân về phía trước, trong khi đà điểu chỉ có thể rượt và mổ bạn còn chim emu thì thích đá hậu về phía sau.
Một cú quét ngang chân của cassowary sẽ phát huy tối đa tiềm lực của những móng vuốt sắc nhọn của chúng. Những cái móng có độ dài hơn 12 cm và sắc như dao. Vận tốc và lực từ một cú quét chân của chim cassowary có thể cắt đứt cả hàng rào thép.
Năm 2019, một người nuôi cassowary ở tiểu bang Florida của Hoa Kỳ đã bị một con chim này tấn công và giết chết trong khi vẫn đứng sau hàng rào. Năm 1929, một con cassowary cũng đã giết một cậu bé 16 tuổi ở Úc với chỉ một cú đá cắt qua cổ.
Các vụ cassowary tấn công vật nuôi của con người như chó và ngựa, thậm chí cả những loài vật được nuôi nhốt cạnh chúng trong sở thú gần như không thể đếm xuể. Khi đi lang thang trong khu dân cư, cassowary có thể tấn công cả những chiếc ô tô và cửa kính chỉ vì chúng nhìn thấy bóng của chúng trong đó.
Tất cả những ví dụ này cho thấy bạn không bao giờ nên đến gần một con chim cassowary. Nhưng một nghiên cứu mới đăng trong Kỷ yếu Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ cho thấy những người thổ dân ở New Guinea thậm chí đã nuôi những con cassowary ngay trong hang động của mình.
Đó là khoảng 18.000 năm về trước, "sớm hơn hàng ngàn năm trước khi con gà đầu tiên được thuần hóa", nhà khảo cổ Kristina Douglass đến từ Đại học Pennsylvania cho biết. Bằng chứng về hoạt động này đã được phát hiện khi Douglass tìm thấy 1.019 mảnh vỡ vỏ trứng cassowary trong các hang động cổ đại.
Cô đã phân tích các vỏ trứng bằng một kỹ thuật laser cho phép đoán được tuổi của trứng, nghĩa là chúng mới chỉ vừa được đẻ ra hay là một quả trứng đang ấp đến độ sắp nở. Kết quả cho thấy:
"Có một lượng lớn những quả trứng được thu hoạch trong giai đoạn phát triển rất muộn. Mô hình mà chúng tôi tìm thấy không phải là một mô hình ngẫu nhiên —người cổ đại, họ đã cố ý chọn những quả trứng ở giai đoạn đó [và đem về hang của mình]", Douglass nói.
Bản thân việc ăn cắp trứng của cassowary đã là rất nguy hiểm. Tổ của những con chim này thường nằm sâu trong rừng và khá khó tìm. Trong thời kỳ ấp trứng, những con cassowary đực sẽ làm nhiệm vụ canh giữ tổ.
Bản chất là một loài chim có nhận thức lãnh thổ cao, cassowary chắc chắn sẽ không tha cho bất cứ ai xâm nhập vào vùng đất của chúng, những kẻ dám cả gan ăn cắp đi những quả trứng thì lại càng không.
"Điều này gợi ý những người cổ đại từng sống ở đây hẳn phải có những kiến thức thực sự sâu sắc về môi trường xung quanh mình", Douglass nói. Họ phải biết cụ thể địa điểm và thời gian thích hợp nhất để trộm những quả trứng cassowary đó, có lẽ bằng cách chia làm hai nhóm, một nhóm đánh lạc hướng con đực đang canh giữ và nhóm còn lại trộm trứng.
Sau khi những quả trứng được lấy và đem về hang của mình, có hai giả thuyết cho những gì đã xảy ra tiếp theo. Giả thuyết thứ nhất nói rằng những người cổ đại đã ăn chúng. Bằng chứng Douglass đã tìm thấy một số vỏ trứng có vết cháy, cho thấy chúng đã được nướng chín.
Nhưng những quả trứng bị nướng thường là trứng non mới đẻ. Còn những vỏ trứng cassowary sắp nở thì thường khá nguyên vẹn. Điều đó đưa chúng ta đến với giả thuyết thứ hai, "có khả năng rất lớn là người cổ đại đã ấp những quả trứng này nở thành những con cassowary và nuôi chúng", Douglass nói.
Trước đây đã có bằng chứng cho thấy những người dân bản địa ở New Guinea sử dụng thịt và lông cassowary cho những nghi lễ. Tuy nhiên, việc săn bắt loài chim này trong tự nhiên tiềm ẩn rất nhiều nguy hiểm.
Vì vậy, có thể người cổ đại đã nuôi những con cassowary từ trứng để phục vụ nhu cầu của họ. Những con chim thường bị ảnh hưởng bởi một hiện tượng gọi là "in dấu". Chúng sẽ nhận bất cứ con vật nào chúng nhìn thấy đầu tiên sau khi nở là mẹ.
Do đó, việc quản lý loài chim nguy hiểm nhất hành tinh này không quá khó nếu chính những người cổ đại đã ấp trứng nở. Ít nhất là cho đến khi những con cassowary này chưa trưởng thành, chúng không phải là mối đe dọa với họ.
Truyền thuyết của người New Guinea còn cho thấy có thể một số bộ tộc cổ xưa ở đây đã cưỡi cassowary trong các trận chiến của họ. Nhưng theo Douglass, không hề có bất cứ bằng chứng nào cho thấy những con chim này bị con người thuần hóa.
Cô cho biết việc thuần hóa đòi hỏi sự can thiệp của con người đối với sự tồn tại của cả một loài, giống như những con gà đầu tiên phải được lai tạo từ gà rừng trong khoảng 8.000 năm trước.
Với những con cassowary, người cổ đại dường như chỉ nuôi chứ không huấn luyện chúng sống phụ thuộc hay nhốt chúng cạnh con người, như cách họ đã thuần hóa được chó và loài dê ibex.
Dẫu vậy, đây vẫn là bằng chứng sớm nhất mà chúng ta có được về một hoạt động quản lý và chăn nuôi gia cầm trong xã hội loài người. "Trước đây, chúng ta có xu hướng nghĩa rừng điều này chỉ có thể xảy ra sau khi con người có được nền nông nghiệp", Douglass nói.
Nhưng những vỏ trứng cassowary được phát hiện ở New Guinea cho thấy trước đó hàng ngàn năm, người cổ đại đã có thể quản lý được cả loài chim đáng sợ nhất hành tinh bằng kiến thức rất có hệ thống của mình.
"Vì vậy, gọi những người săn bắn hái lượm là người nguyên thủy là chúng ta đang đánh giá quá thấp trình độ hiểu biết của họ", Douglass nói.
Tham khảo Popsci , Nytimes , Scientificamerican