Đại dương ồn ào
Ngày nay, các vùng nước trên khắp đại dương rộng lớn đều là nơi hỗn loạn giữa tiếng ồn động cơ, sóng siêu âm và địa chấn. Rác thải từ các hoạt động của con người từ trên đất liền làm vẩn đục nguồn nước. Hóa chất công nghiệp làm rối loạn khứu giác của sinh vật biển. Chính con người đang cắt đứt các liên kết cảm giác đã tạo ra sự đa dạng cho các loài động vật trên thế giới.
Ô nhiễm tiếng ồn đang ảnh hưởng rất lớn đến nhiều loài sinh vật biển. Ảnh: The Guardian.
Cá voi không thể nghe thấy các xung định vị bằng tiếng vang để xác định vị trí con mồi, cá đến mùa sinh sản không thể tìm thấy nhau giữa tiếng ồn và độ đục, và mối liên kết xã hội giữa các loài giáp xác thông qua sóng âm bị hòa lẫn trong làn khói ô nhiễm của con người.
Phía ngoài khơi bờ biển Đảo San Juan, giọng nói của những con cá voi giống như những tấm lụa mịn, được khâu vào một lớp vải denim dày của tiếng cánh quạt và âm thanh động cơ, đôi khi có thể nghe thấy tiếng lách cách và tiếng huýt sáo nhỏ, nhưng thường biến mất trong lớp dệt chặt chẽ của động cơ. Hàng chục chiếc thuyền phát ra những tiếng động lớn, gào thét dữ dội khi họ theo dõi những con cá voi, quấn chúng trong một cái vỏ bọc áp lực không thể tránh được.
Ở phía xa, một tàu container và một tàu chở dầu đang hướng về phía bắc qua eo biển Haro, có khả năng đi đến Vancouver, cảng lớn nhất trong khu vực - hai trong số hơn 7.000 tàu lớn, thực hiện hơn 12.000 lượt qua lại dọc eo biển hàng năm. Từ tàu chở hàng rời, tàu container đến tàu chở dầu, nhiều tàu dài đến 200 hoặc 300 mét. Các tàu lớn cũng đi qua vùng biển phía tây eo biển Haro, hướng đến các cảng và nhà máy lọc dầu trong hoặc xung quanh khu vực Seattle và Tacoma. Mỗi con tàu đều tạo ra sóng âm thanh có thể nghe được dưới nước từ hàng chục, đôi khi hàng trăm dặm.
Không giống như những chiếc thuyền du lịch nhỏ thường neo đậu vào lúc mặt trời lặn, những chiếc thuyền lớn này gây ra tiếng ồn cả đêm lẫn ngày, và thường hoạt động mạnh nhất và ồn ào nhất vào ban đêm. Các tàu container lớn nhất nổ ở khoảng 190 decibel dưới nước hoặc hơn, tương đương tần số trên đất liền của một trận sấm sét hoặc khi máy bay phản lực cất cánh.
Nguy cơ tuyệt chủng
Đa số cộng đồng cư dân cá voi phía Nam sống tập trung trên vùng biển này đều không thể chịu được tiếng ồn. Dân số của loài đang suy giảm, có khả năng dẫn đến tuyệt chủng trừ khi thế giới trở nên thân thiện hơn với chúng. Trong những năm 1990, cộng đồng cá voi từng phát triển rất đông đúc, tuy nhiên hiện tại số lượng đã giảm mạnh, mỗi năm mất thêm một hoặc hai con mà không có cá thể mới được sinh ra.
Năm 2005, cá voi được liệt kê theo Đạo luật về các loài nguy cấp của Mỹ. Không một yếu tố cụ thể nào sẽ chịu trách nhiệm trước vấn đề này, nhưng sự kết hợp của tiếng ồn đại dương, nguồn cung cấp thực phẩm giảm và ô nhiễm hóa chất nặng nề đã đóng lại cánh cửa tương lai của loài.
Những con cá voi chính là loài chim ưng của đại dương, lao xuống 100 mét hoặc hơn để săn đuổi con mồi với tốc độ cao, loài cá hồi chinook. Các tần số âm thanh của tiếng ồn trên thuyền trùng lặp với những tiếng lách cách mà động vật sử dụng để định vị bằng tiếng vang và tìm con mồi. Tiếng ồn đã tạo thành lớp sương mù, giảm tầm nhìn của những người thợ săn. Nếu một con cá voi ở trong phạm vi 200 mét từ tàu container hoặc 100 mét của một chiếc thuyền nhỏ hơn có động cơ bên ngoài, phạm vi định vị bằng tiếng vang của nó sẽ giảm 95%.
Đối với hầu hết các loài cá voi, nhiều loài cá khác cũng như các động vật không xương sống, đôi mắt chỉ là một bộ phận có ích. Dưới vực sâu thăm thẳm, các loài vật đều bơi trong bóng đêm. Dọc theo các bờ biển, nước đục đến mức các loài động vật chỉ có thể nhìn thấy nhiều nhất là một vật ở phía trước. Chính âm thanh tiết lộ hình dạng, năng lượng, ranh giới và phân biệt những cư dân khác của biển cả.
Chính âm thanh cũng là một liên kết giao tiếp. Trong đại dương, cũng như trong rừng nhiệt đới, nơi những tán lá rậm rạp che khuất tầm nhìn, âm thanh sẽ giúp kết nối với bạn tình, họ hàng và những đối thủ không thể nhìn thấy, đồng thời cảnh báo về những con mồi và động vật ăn thịt gần đó.
Nếu có nhiều cá hồi, tất cả tiếng ồn này có thể không thành vấn đề. Tuy nhiên, loài cá hồi chinook – phần lớn chế độ ăn của cá voi lại đang gặp khủng hoảng. Đập, đô thị hóa, nông nghiệp và khai thác gỗ đã cắt đứt hoặc làm suy thoái hầu hết các dòng sông và suối nước ngọt nơi cá đẻ trứng và sinh sống trong những tháng đầu tiên. Số lượng cá hồi Chinook ở khu vực này đã giảm 60% kể từ những năm 1980 và có thể hơn 90% kể từ đầu thế kỷ 20. Trong điều kiện hiện tại, bất kỳ căng thẳng nào cũng có thể sẽ khiến loài này tuyệt chủng.
Cách Vancouver 700 km về phía bắc, các vịnh hẹp dẫn đến cảng Kitimat là nơi sinh sống của một số loài cá voi sống trong vùng nước tương đối sạch sẽ và yên tĩnh. Tại đây, chính quyền đang xây dựng một nhà ga khí đốt tự nhiên hóa lỏng, dự kiến sẽ bổ sung thêm 700 lượt tàu lớn mới, tăng gấp hơn 13 lần, chưa kể các tàu kéo mạnh sẽ đi cùng các tàu chở dầu khi họ điều hướng các vịnh hẹp.
Hải quân Mỹ cũng có kế hoạch mở rộng các cuộc tập trận trong khu vực, bao gồm cả việc sử dụng chất nổ và sóng âm lớn. Theo ước tính, trên khắp bờ biển tây bắc Thái Bình Dương, các cuộc tập trận của ‘âm thanh và chất nổ’ sẽ giết hoặc làm bị thương gần 3.000 loài động vật biển có vú, đồng thời làm gián đoạn việc kiếm ăn, sinh sản, di chuyển và nuôi dưỡng trong tổng số 1,75 triệu cá thể loài nữa.
Tiếng ồn xung quanh trên bờ biển Thái Bình Dương của Bắc Mỹ đã tăng khoảng 10 decibel kể từ những năm 1960, khi các phép đo bắt đầu. Theo một số ước tính, mức độ tiếng ồn trên các đại dương trên thế giới đã tăng gấp đôi sau mỗi thập kỷ kể từ giữa thế kỷ 20.
Các chuyến tàu hội tụ xung quanh các cảng biển lớn chính là tâm điểm của vấn đề tiếng ồn kéo dài trên các đại dương. Trong những năm 1950, khoảng 30.000 tàu buôn đã đi qua các đại dương trên thế giới. Hiện có khoảng 100.000 chiếc, nhiều người trong số họ có động cơ lớn hơn nhiều. Trọng tải hàng hóa đã tăng gấp 10 lần.
Trong vũng lầy của tiếng ồn, tiếng ồn của con người là lớn nhất, nhịp gõ của quá trình tìm kiếm năng lượng công nghiệp hóa. Những người thăm dò làm nổ tung đại dương, tìm kiếm dầu và khí đốt bị chôn vùi dưới lớp trầm tích. Giống như một con cá voi được dẫn đường bởi âm thanh phản chiếu của một con cá hồi chinook, các công ty dầu khí sử dụng âm thanh để tìm mỏ đá. Nhưng không giống như tiếng cá voi, âm thanh từ những cuộc khảo sát địa chấn có thể được nghe thấy từ khoảng cách xa tới 2.500 dặm.
Đối với các sinh vật sống dưới nước, âm thanh là thị giác, xúc giác, là khả năng nhận biết và thính giác bởi chúng không thể rời khỏi mặt nước. Các sinh vật đại dương, đặc biệt là những loài sinh sống gần bờ biển hoặc dọc theo các tuyến đường buôn bán sầm uất, hiện đang sống trong các khu vực mà trước đây từng gần các ngọn núi lửa dưới nước hoặc nằm trong một trận động đất. Sóng gió khuấy động, băng vỡ, động đất và chuyển động của bong bóng trong các cột nước là những âm thanh mà sinh vật biển có thể thích nghi. Nhưng tiếng nổ của súng hơi, tiếng kim và tiếng đâm của sóng âm và tiếng động cơ lại là một câu chuyện khác.