Đòn tập kích của Mỹ
Mở đầu cho cách đánh này chính là Chiến dịch Bão táp Sa mạc do Mỹ dẫn đầu tấn công vào Iraq dưới thời Tổng thống Saddam Hussein.
Trong chiến dịch này, khi những quả bom dẫn đường bằng laser từ trên không trung trút xuống xe tăng của quân đội Iraq, các máy bay trinh sát giám sát mọi di biến động của đối phương trên chiến trường, còn các máy bay ném bom tàng hình tiến sâu vào nội địa để không kích, qua mặt tất cả các hệ thống radar phòng không.
Theo các chiến lược gia quân sự, chiến dịch Bão táp Sa mạc giữa liên quân 30 nước do Mỹ dẫn đầu chống lại hành động xâm lược Kuwait của quân đội Iraq dưới thời Tổng thống Saddam Hussein là một bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển của chiến tranh hiện đại, với sự ra đời của những loại vũ khí, công nghệ chưa từng có.
Chiến dịch Bão táp Sa mạc là màn ra mắt của công nghệ tàng hình, dẫn đường bằng GPS, hệ thống cảnh báo tên lửa, các radar trinh sát tiên tiến hơn gắn trên máy bay, và một lượng lớn bom dẫn đường bằng laser có độ chính xác cao, theo tướng Paul Johnson, phụ tá cấp cao của phó tham mưu trưởng phụ trách kế hoạch chiến lược và trang bị của không quân Mỹ.
Hệ thống phòng không S-300 của Nga đồng loạt khai hỏa
"Ngay từ đầu, chúng tôi đã cho rằng chiến dịch này sẽ trở thành bước chuyển mình cho nghệ thuật tác chiến trên không", ông nói.
Cuộc tập kích đường không kéo dài 5 - 6 tuần này mở đầu bằng những đợt tấn công tên lửa hành trình và những cuộc tập kích mạo hiểm của trực thăng MH-53 Pave Low và AH-64 Apache vào sau phòng tuyến địch để hạ gục các đài radar cảnh báo sớm của quân đội Iraq.
Mục đích của hoạt động này là nhằm hủy diệt hoàn toàn các trạm radar phòng không của Iraq, tạo ra một hành lang trên không để các chiến đấu cơ có thể tự do tiến vào tấn công các mục tiêu quân đội Iraq trên mặt đất.
"Đây là buổi bình minh của công nghệ dẫn đường bằng GPS, được trang bị trên trực thăng MH-53 Pave Low. Bởi vậy trực thăng này đã lãnh nhiệm vụ dẫn đường cho Apache tiến sâu vào lãnh thổ Iraq để truy tìm các trạm radar cảnh báo sớm. Hiện nay, ai dùng smartphone cũng có công nghệ này, nhưng vào đầu thập niên 1990, đó quả là một cuộc cách mạng", tướng Johnson nói.
Viên tướng này cho biết mục tiêu hàng đầu của chiến dịch tập kích đường không là những khẩu pháo của Iraq có khả năng bắn đạn hóa học, tiếp sau đó là các hệ thống phòng không, đội hình quân sự, xe thiết giáp và các vị trí chỉ huy, kiểm soát.
Vũ khí phát huy hiệu quả nhất trong chiến dịch này chính là bom dẫn đường bằng GPS (JDAM), loại bom chưa từng được sử dụng trước đây. Công nghệ dẫn đường bằng GPS đã cải thiện đáng kể khả năng xác định mục tiêu của phi công để có thể thực hiện những đòn đánh chính xác nhất.
Công nghệ GPS chứng tỏ được giá trị của mình trên chiến trường sa mạc bằng phẳng ở Iraq, nơi không có các dãy núi hay các đặc điểm địa hình nổi bật làm mốc dẫn đường cho phi công. Nếu không có công nghệ dẫn đường này, các phi công rất dễ bị lạc mục tiêu giữa sa mạc hoang vu không đường sá, sông suối hay bất cứ điểm cao nào.
Các vũ khí dẫn đường bằng laser cũng cho phép không quân Mỹ trút một lượng lớn bom, tên lửa vào các mục tiêu được chỉ thị bằng tia laser, nâng cao đáng kể độ chính xác và hiệu quả của chiến dịch, đồng thời giảm thiểu thiệt hại ngoài dự tính.
"Mặc dù vũ khí laser đã được sử dụng từ trước, nhưng đến chiến dịch này, chúng tôi đã sử dụng bom dẫn đường bằng laser với tần suất chưa từng có", ông Johnson lý giải.
Ngoài JDAM và bom dẫn đường bằng laser, không quân Mỹ còn sử dụng tên lửa Maverick, bom xuyên phá Mk 84 900 kg và bom 226 kg Mk 82, cùng với các loại bom chùm. Tên lửa Maverick sử dụng cơ chế dẫn đường chính xác quang điện tử đã trở thành ác mộng đối với các loại xe tăng, xe bọc thép của Iraq thời kỳ đó.
Nga khắc chế cách đánh của Mỹ
Dù là cách tấn công đầy ưu việt, tuy nhiên đòn tập kích đường không của Mỹ được cho là không phù hợp với những quốc gia sở hữu hệ thống phòng không hiện đại như S-300/400 bởi những hệ thống này có thể đáp trả sòng phẳng với đòn tấn công bằng bất vũ khí đường không nào dù với cường độ cao đến đâu.
S-300 có khả năng tiêu diệt hiệu quả các mục tiêu tên lửa đạn đạo, đồng thời được coi là một trong những hệ thống chống máy bay mạnh nhất hiện nay với tầm bắn lên đến hơn 150 km. S-300 cũng sở hữu sức mạnh ngăn chặn cả chiến đấu cơ tàng hình.
"S-300 là hệ thống phòng không hàng đầu của Nga", ông Robert Hewson, cây bút từ tạp chí quốc phòng IHS Janes, bình luận. "Đây là hệ thống phòng thủ đủ khả năng bắn hạ bất kỳ loại tên lửa hay mẫu chiến đấu cơ tiên tiến nào", ông nhấn mạnh.
Hệ thống tên lửa S-300 có thể đồng thời theo dõi đến 100 mục tiêu và xử lý được từ 12 đến 36 chiếc trong số đó. Ở những phiên bản S-300PMU1/2 trở về sau, khả năng của radar được tăng cường, theo dõi đến 300 mục tiêu và xử lý cùng lúc tới 72 vật thể bay xâm phạm
Thời gian để triển khai S-300 là 5 phút. Các tên lửa S-300 được đặt trong những ống kim loại kín và không cần bảo trì trong suốt quá trình sử dụng.
Quy trình hoạt động cơ bản của một hệ thống S-300 gồm 4 bước. Đầu tiên, các radar giám sát tầm xa xác định mục tiêu và chuyển tiếp thông tin về các xe chỉ huy để tiến hành đánh giá, phân tích. Sau khi xác nhận mục tiêu, xe chỉ huy truyền lệnh bắn tới radar điều hướng.
Khi tiểu đoàn ở vị trí tốt nhất nhận được lệnh bắn này, họ lập tức khai hỏa tên lửa đất đối không. Radar điều hướng giúp dẫn tên lửa tới chính xác mục tiêu cần tiêu diệt.
S-300 có nhiều phiên bản nâng cấp được trang bị những loại tên lửa, radar khác nhau với khả năng chống các phương pháp tấn công điện tử tốt hơn, tầm bắn xa hơn và ứng phó với nhiều tình huống hơn.
Hiện có ba biến thể chính gồm: S-300V, S-300P và S-300F. Mỗi biến thể lại chia ra nhiều loại với từng tính năng riêng biệt. Theo nhận định từ các chiến lược gia quân sự, S-300 là hệ thống tên lửa đất đối không đa năng "bất khả chiến bại" và tin cậy nhất hiện nay.