Khi loại trừ dầu thô, số thu còn khoảng 21,6% GDP, tuy nhiên, thu từ dầu thô lại đang có tỉ trọng ngày càng giảm dần trong tổng thu ngân sách nhà nước, từ khoảng 6,9% GDP trong năm 2007 xuống còn chưa đầy 3,1% GDP trong năm 2011. Hay nói cách khác, tỉ trọng các khoản thu ngoài dầu thô đang tăng.
Trong các nguồn thu ngân sách, thu thuế chiếm tỉ trọng lớn nhất.
Mức thu thuế và phí (trừ dầu thô) của Việt Nam hiện nay đang rất cao so với các nước khác trong khu vực - các tác giả khẳng định. Cụ thể, trung bình trong 5 năm gần đây, nếu tỉ lệ thu thuế phí/GDP của Việt Nam trên 20% thì ở Trung Quốc là 17,3%, Thái Lan và Malaysia xấp xỉ 15,5%, Philipines 13%, Indosia 12,1% và Ấn Độ chỉ 7,8%.
Tuy nhiên, với ước tính sơ bộ của năm 2010 và 2011 tỷ lệ này vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, thậm chí gia tăng từ 22,6% lên 24,4%. Tác giả bản báo cáo đưa ra nhận định, ngoài việc chịu "thuế lạm phát" hàng năm ở mức hai con số, những chính sách bảo hộ và thuế chồng lên thuế đang khiến mỗi người dân Việt Nam gánh chịu tỉ lệ thuế phí/GDP cao gấp từ 1,4 đến 3 lần so với các nước khác trong khu vực.
Thuế cao khuyến khích các hành vi gian lận thuế
Theo đánh giá của bản báo cáo, tổng mức thu thuế/GDP cao ngoài việc hạn chế khả năng tích lũy, giảm đầu tư phát triển thì còn khuyến khích các hành vi gian lận về thuế.
Chiếm khoảng 20% GDP trong toàn nền kinh tế nhưng các doanh nghiệp FDI lại chỉ đóng góp trên dưới 10% tổng thu ngân sách nhà nước. Nhiều doanh nghiệp trong khu vực này liên tục báo lỗ nhưng lại xin mở rộng đầu tư.