Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 |

Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ

Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, nằm ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí chiến lược quan trọng.

Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 1.

Quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ

Được Mĩ giúp đỡ, Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương. Lực lượng địch ở đây lúc cao nhất là 16200 quân, được bố trí làm 49 cứ điểm, chia thành ba phân khu: phân khu Trung tâm có sở chỉ huy và sân bay Mường Thanh, phân khu Bắc và phân khu Nam.

Na-va và nhiều nhà quân sự Phá-Mĩ đánh giá Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm", và từ ngày 3-12-1953, chúng quyết định giao chiến với quân ta tại Điện Biên Phủ.

Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.

Chiến dịch bắt đầu từ 13-3-1954 đến hết 7-5-1954 và được chia làm 3 đợt:

Đợt 1, quân ta tiến công tiêu diệt căn cứ Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc.

Đợt 2, quân ta tiến công và tiêu diệt các căn cứ phí đông phân khu Trung tâm.

Đợt 3, quân ta đồng loạt tiến công tiêu diệt các căn cứ còn lại ở phân khu Trung Tâm và phân khu Nam. Chiều 7-5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 phút ngày 7-5, Tướng Đờ-Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch ra đầu hàng.

Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 2.

Quân ta giương cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp (Ảnh: vov.vn)

Trong cùng thời gian, trên các chiến trường toàn quốc, quân ta đẩy mạnh chiến đấu, tiêu diệt, giam chân phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành toàn thắng.

Trong toàn bộ cuộc tiến công chiến lượng Đông-Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đã giải phóng nhiều vùng đông dân ở các đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ.

Riêng tại mặt trận Điện Biên phủ, trong gần hai tháng chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm của dịch, loại khỏi vòng chiến dấu 16200 tên địch (có 1 thiếu tướng), phá hủy và thu toàn bộ phương tiện chiến tranh, bắn rơi và bắn cháy 62 máy bay các loại.

Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 3.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một lần thăm lại chiến trường Điện Biên Phủ

Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương (1954)

Bước vào Đông-Xuân 1953-1954, đồng thời với mặt trận quân sự, ta còn tiến công địch trên mặt trận ngoại giao

Ngày 26-11-153, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố :..nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng hình thức thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó".

Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương chính thức khai mạc ngày 8-5-195 bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 4.

Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954

Tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương, gồm có Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Cộng hòa Nhân dân Trung hoa và các nước có liên quan đến Đông Dương. Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.

Cuộc đấu tranh trên bàn Hội nghị diễn ra gay gắt và phức tạp do lập trường ngoan cố của Pháp và Mĩ. Lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chấm dứt chiến tranh trên toàn Đông Dương, giải quyết vấn đề quân sự và chính trị cùng một lúc cho cả ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương

Căn cứ vào điều kiện cụ thể cuộc kháng chiến của ta, cũng như so sánh lực lượng giữa ta và Pháp trong chiến tranh và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kì Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21-7-1954.

Nội dung Hiệp định gồm các điều khoản cơ bản sau:

Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền độc lập cơ bản của ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia là độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Hai bên tham chiến (lực lượng kháng chiến ở các nước Đông Dương và lực lượng xâm lược Pháp) ngừng bắn , lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương .

Hai bên tham chiến thực hiện di chuyển, tập kết quân đội ở hai vùng ; Quân đội cách mạng Việt Nam và quân đội xâm lược Pháp tập kết ở hai miền Bắc và Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh rới quân sự tạm thời

Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ủy ban quốc tế.

Hiệp định Giơ-ne-vơ cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Việt Nam, Lào, Campuchia.

Hiệp định Giơ-ne-vơ là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng.

Với Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương, Pháp buộc phải rút hết quân dội về nước; Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh xâm lược Đông Dương; miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giải đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp

Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược. Đồng thời chấm dứt ách thống trị thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta; miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh.

Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược được tiến hành trong điều kiện hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được cũng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào và Campuchia được tiến hành trong liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và câc nước dân chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.

Bài viết nhằm giúp cho độc giả nào chưa có điều kiện tìm hiểu lịch sử nước nhà có thêm kiến thức tham khảo, theo tinh thần "Dân ta phải biết Sử ta". Nguồn: SGK Sử lớp 9, tr124-125-126-127.


Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại