10 trận ném bom rung chuyển thế giới (P2)

Trong số này, phải kể đến 2 trận ném bom nguyên tử thảm khốc xuống Nhật Bản, các phi vụ trong chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh vùng Vịnh...

Tin liên quan: 10 trận ném bom rung chuyển thế giới (P1)

Duy trì ưu thế trên không là một trong những nền tảng của mọi cuộc chiến tranh lớn từng được tiến hành kể từ khi phát minh ra máy bay; đó là những trận không chiến tầm gần cổ điển trong Thế giới I hay các vụ ném bom nguyên tử vào năm 1945 cho đến việc sử dụng gần đây các máy bay không người lái trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ. Tuy nhiên, nếu nói đến những phi vụ có tổ chức và những cuộc không kích có tính toán, thì chúng chủ yếu bắt đầu sau Thế chiến I .

Dưới đây liệt kê 10 phi vụ quân sự đã trở thành công cụ trong việc định hình lịch sử và chính trị thế giới. “Sức mạnh không quân có thể kết thúc chiến tranh, hoặc kết thúc nền văn minh” - Winston Churchill, 1933.

5. Hai trận ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản

Cuối năm 1944, Mỹ bắt đầu các cuộc oanh tạc quy mô lớn vào Nhật Bản, và vào tháng 5/1945, nhiều thành phố chủ chốt của Nhật Bản bị tàn phá thành đống đổ nát. Trong khi đó, chính phủ Mỹ đã chi 2 triệu USD và gần 200.000 người đã làm việc ngoài giờ cho dự án Manhattan, dự án bí mật có nhiệm vụ duy nhất là chế tạo một loại siêu vũ khí, khác với bất kỳ loại vũ khí nào khác trong lịch sử loài người - đó là bom nguyên tử . Sau khi một số vụ thử nghiệm sơ bộ loại bom có tính cách mạng này, dưới sự lãnh đạo của Đại tá Paul Tibbets, một nhóm tuyệt mật đã được lựa chọn cẩn thận và được đào tạo đặc biệt chỉ để làm một việc là thả bom nguyên tử.

B-29 là sự lựa chọn tự nhiên làm máy bay ném bom nguyên tử, vào năm 1944, đây là máy bay ném bom công nghệ tiên tiến nhất thế giới, và 15 chiếc B-29 đã được sửa đổi đặc biệt để mang bom hạt nhân. Tibbets và tổ lái của ông đã được huấn luyện cho nhiệm vụ trọng trách này, bao gồm bay ở độ cao lớn, dẫn đường tầm xa, cũng như tuyến đường rút nhanh. Việc rút nhanh là cần thiết vì bom nguyên tử nổ sẽ tạo ra sóng xung kích lớn lan xa và rộng và sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng kể cả các máy bay ném bom nếu không xem xét tính toán. Ba mục tiêu đã được lựa chọn là Hiroshima, Kokura và Nagasaki. Và cuộc tấn công đã được lên lịch vào tháng 8/1945 nếu thời tiết cho phép.

Các máy bay tham gia: Siêu pháo đài B-29 Superfortress

Ngày 6/8, chiếc B-29 mang tên Enola Gay do Tibbets đích thân điều khiển đã cất cánh từ một căn cứ bí mật ở Tinian trên Thái Bình Dương, chỉ cách Tokyo 1.450 hải lý. Đúng 8 giờ 15 phút sáng, nó thả quả bom Little Boy nặng 4.406 kg xuống Hiroshima. Khi quả bom phát nổ, cả máy bay rung lắc dữ dội khi sóng xung kích ập đến nó trong không trung. Robert Lewis, phi công phụ của Tibbets kinh hoàng nhìn đám mây nấm bùng lên từ mặt đất bên dưới. Những lời duy nhất thoát khỏi miệng ông là “Lạy Chúa tôi, chúng ta đã làm cái gì thế này?”.

Quả bom thứ hai có tên Fat Man (và là quả bom nguyên tử cuối cùng trong kho vũ khí của Mỹ lúc đó) đã được thả vào ngày 9/8 bằng chiếc B-29 có tên Bockscar xuống thành phố công nghiệp Nagasaki. Mục tiêu dự kiến tấn công là Kokura, nhưng do những đám mây che khuất thành phố, nê mục tiêu thứ ba đã được chọn. Khi quả bom phát nổ, chiếc Bockscar run rẩy trong không trung và một trong các thành viên tổ lái sau đó nói như thể chiếc máy bay đã “bị đánh bằng một cái cột điện thoại”.

Nhật Bản đã đầu hàng vô điều kiện vào ngày 14/8. Sự kết thúc của Thế chiến II đã bắt đầu. Tuy nhiên, thời đại nguyên tử chỉ mới bắt đầu.

4. Chiến tranh Triều Tiên

Các máy bay tham gia: F-51 Mustang, F-80 Shooting Star, F-9F Panther, MiG-15 Fagot, F-86 Sabre

Chiến tranh Triều Tiên đã đánh một dấu mốc quan trọng trong chiến tranh trên không bởi vì đây sẽ là lần đầu tiên các máy bay tiêm kích tham gia tích cực trong các trận chiến trên không. Trong khi các máy bay phản lực sơ khai đã được Đức phát xít sử dụng trong những ngày cuối cùng của Thế chiến II, chúng đã không thực sự đóng bất kỳ vai trò quan trọng nào trong chiến tranh. Chiến tranh Triều Tiên là chiến tranh đầu tiên đã đẩy máy bay phản lực chống lại máy bay phản lực.

Chiến tranh nổ ra khi Bắc Triều Tiên tiến quân xuống Nam Triều Tiên vào tháng 6/1950. Để đối phó với Bắc Triều Tiên, Mỹ đã trợ giúp Hàn Quốc bằng các máy bay tiêm kích cánh thẳng Mustang. Trung Quốc đã vội vã chi viện Bắc Triều Tiên, còn Liên Xô thì cung cấp hỗ trợ quân sự. Những ngày đầu của cuộc chiến sẽ chứng kiến những trận không chiến giữa các máy bay Mustang của Mỹ và Lavochkin La-7 của Liên Xô. Sau đó, khi Liên Hiệp Quốc can thiệp để hỗ trợ Hàn Quốc, những trận chiến giữa các máy bay phản lực trở nên ác liệt hơn và các máy bay tiêm kích hiện đại hơn đã được tung vào cuộc chiến. Trong số đó có F-80 Shooting Star và F-86 Sabre của Mỹ và MiG-15 của Liên Xô.

Trận tỷ thí đầu tiên giữa Sabre và MiG-15 xảy ra vào tháng 12/1950 khi 4 chiếc Sabre chặn đánh 4 chiếc MiG ở độ cao hơn 25.000 ft trên mực nước biển. Sau đó, 8 chiếc Sabres đã chặn đánh 15 chiếc MiG và các máy bay tiêm kích Mỹ đã bắn hạ tất cả 6 chiếc MiG trước khi rút lui. Không quân Australia cũng tham chiến, ban đầu là gửi các máy bay F-51 Mustang, sau đó là F-8 Gloster Meteor. Tuy nhiên, các máy bay này không thể địch nổi MiG-15 vượt trội hơn và đã dễ dàng bị đánh bại trong nhiều trận giao chiến. Các máy bay của Liên Hợp Quốc cũng đã khiến Liên Xô ngán ngại. Các máy bay Hawker Sea Fury của Anh đã nhảy vào bảo vệ Hàn Quốc đã bắn hạ nhiều máy bay của phe Bắc Triều Tiên nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác ngoài Mỹ.

Khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, Không quân Mỹ đã thiệt hại 103 máy bay và giành được không dưới 753 chiến thắng (?). Cuộc chiến tranh này như vậy đã chứng minh hiệu quả của máy bay tiêm kích trên vũ đài quốc tế. Nó cũng báo trước kỷ nguyên máy bay tiêm kích cánh xuôi như Sabre và MiG-15.

3. Các cuộc không kích Black Buck ở quần đảo Manvinas/Falklands

Các máy bay tham gia: Avro Vulcan

Quần đảo Falkland đã nằm dưới sự cai trị của Anh kể từ năm 1833. Tuy nhiên, Argentina, trong một nỗ lực để giành lại chủ quyền đối với quần đảo, đã đổ quân chiếm lại vào năm 1982. Các chiến dịch của Anh để giành lại quyền kiểm soát đã được với nhiều khó khăn do khoảng cách quá xa. Khi Lực lượng đặc nhiệm Anh được triển khai đến chiến trường, người ta thấy cần phải làm tê liệt hệ thống phòng không của Argentina trên quần đảo Malvinas. Họ bắt buộc phải phá hủy đường băng của Argentina tại Port Stanley để Không quân Argentina không thể sử dụng nữa. Ngoài ra, còn phải loại khỏi vòng chiến các trạm radar rất quan trọng của Argentina để các tiêm kích của Anh có thể tấn công mà không bị phát hiện trước.

Các phi vụ phải thực hiện trong vòng bí mật tuyệt đối và xuất phát từ lãnh thổ thân thiện. Điều đó đã khiến người Anh phải di chuyển căn cứ xuất phát tấn công của họ đến một hòn đảo nhỏ ở Đại Tây Dương là đảo Ascension. Đây cũng chẳng hề là vị trí “gần” với Falklands, chính xác là gần 6.100 km, và các phi vụ ném bom ở khoảng cách lớn như vậy chưa ai từng cố thực hiện. Máy bay ném bom được lựa chọn là Avro Vulcan, một máy bay ném bom phản lực biểu tượng của Anh thời hậu Thế chiến II.

Các phi vụ bay đến Falklands để tiêu diệt đường băng ở Port Stanley và 2 trận địa radar có mật danh là Chiến dịch Black Buck. Có tổng cộng 5 phi vụ được thực hiện, và sự tham gia của hậu cần thật kinh ngạc. Mỗi phi vụ bay 2 chiều là gần 13.000 km - dài nhất trong lịch sử nhân loại. Các máy bay Vulcan tham gia Black Buck đã được tiếp dầu nhiều lần trong các chuyến bay dài đến Falklands và trở về. Việc tiếp dầu do các máy bay tiếp dầu Victor của Không quân Hoàng gia thực hiện bằng các ống tiếp dầu.

Hai chiếc Vulcan cất cánh vào ngày 30/4/1982. Mỗi chiếc mang 21 quả bom cỡ 1.000 bảng. Đó là một hành trình dài 8 giờ đến Falklands, và các máy bay Vulcan đã được hộ tống bởi không dưới 11 máy bay tiếp dầu Victor. Một chiếc Vulcan gặp trục trặc kỹ thuật nên phải bay về căn cứ. Do đó, thực hiện phi vụ chỉ còn một chiếc Vulcan được bay kèm bởi số lượng Victor ngày càng giảm khi bay đến lãnh thổ đối phương. Chiếc Victor cuối cùng bơm quá nhiều nhiên liệu cho chiếc Vulcan còn lại để nó có thể bay đến phạm vi 400 hải lý cách đảo Ascension, nơi một chiếc Victor mới sẽ đến và tiếp dầu cho chiếc Vulcan hết dầu đang trở về.

Khi cách Stanley gần 500 km, chiếc Vulcan đơn độc hạ xuống độ cao dưới 100 m so với mực nước biển để tránh bị phát hiện. Khi còn cách mục tiêu khoảng 40 km, nó thực hiện thao tác cơ động ném bom cuối cùng. Máy bay leo lên độ cao hơn 3.000 ft và chuẩn bị sẵn sàng. Sau đó, khi cách Stanley 10 km, một radar phòng không bị phát hiện. Nó đã nhanh chóng bị gây nhiễu bằng một thiết bị do Mỹ cung cấp để trang bị cho Vulcan. Toàn bộ 21 quả bom đã được thả xuống theo đường chéo trên đường băng.

Đường băng đã bị phá hủy và Argentina đã bị sốc và lo sợ. Nếu các máy bay ném bom Anh có thể tấn công Falklands, thì không gì có thể ngăn được chúng oanh tạc Argentina. Các cuộc tấn công Black Buck đã thành công.

2. Chiến dịch El Dorado Canyon

Các máy bay tham gia: F-111 Aardvark, F-18 Hornet

Sau một loạt các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào Mỹ vào năm 1986, các cơ quan tình báo Mỹ cho rằng, họ có bằng chứng “không thể chối cãi” là các vụ việc này đều đã được tài trợ bởi Libya. Chiến dịch El Dorado là phản ứng của Mỹ đối với mối đe dọa khủng bố ngày càng tăng này. Chiến dịch này bao gồm một phi vụ đánh bom xuất phát từ Anh của Không quân Mỹ, thậm chí còn có tầm bay xa hơn Chiến dịch Black Buck Raid năm 1982. Công tác bảo đảm hậu cần cho phi vụ còn trở nên phức tạp hơn khi Pháp, Italia, Đức và Tây Ban Nha từ chối hợp tác với Mỹ. Chỉ có Anh sẵn sàng cung cấp lãnh thổ để làm ăn cứ cho Không quân Mỹ.

Loại máy bay ném bom được chọn thực hiện phi vụ này là F-111 bay thấp, có tốc độ rất lớn. Mặc dù đây là một máy bay ném bom rất tiên tiến, nó không hề được thiết kế để thực hiện các phi vụ xa như vậy. Chiến dịch El Dorado Canyon sẽ bao gồm một chuyến bay hai chiều dài 6.400 hải lý, đòi hỏi mất 13 giờ bay và không dưới 12 lần tiếp dầu cho mỗi chiếc trong số 24 chiếc F-111. Đó là một phi vụ đầy tham vọng với hầu như không có chỗ cho sai sót.

Các mục tiêu đã được lựa chọn thông qua công tác lên kế hoạch chung giữa Không quân và Hải quân Mỹ. Có 2 mục tiêu ở Benghazi, một trung tâm huấn luyện khủng bố và một sân bay. Có 3 mục tiêu khác trong thành phố Tripoli là trại huấn luyện khủng bố đường biển, căn cứ không quân Wheelus và trại lính Azziziyah.

24 chiếc F-111 rời lãnh thổ Anh vào ngày 14/4/1986, 6 trong số đó là máy bay dự phòng và sau đó đã quay về. Hải quân Mỹ đã phát động một cuộc tấn công đồng thời bằng các máy bay ném bom A-6E và F/A-18 Hornet. Mặc dù các cuộc đình công đã thành công và gây thiệt hại nghiêm trọng cho các mục tiêu then chốt của Libya, đây không phải là một phi vụ dễ dàng. Phòng không Libya là một hệ thống tiên tiến hầu như ngang bằng về công nghệ với hệ thống phòng không Liên Xô.

Trong số 18 chiếc F-111 bay về hướng Libya, 5 chiếc đã phải hủy bỏ nhiệm vụ, vì vậy số lượng giảm xuống còn 13 và chúng cuối cùng đã bay đến Tripoli. Trại lính Azziziyah bị trúng 3 quả bom, trong khi 1 quả bom đánh trúng trại khủng bố Sidi Balai, 2 quả bom khác đánh trúng sân bay Tripoli và phá hủy nhiều máy bay trên mặt đất.

Cuộc tấn công đã kết thúc chỉ trong vòng 10 phút và 12 chiếc F-111 trở về đất Anh bằng chặng bay dài. Mỹ đã mất 1 chiếc F-111 trong các cuộc tấn công, có thể là do bị một tên lửa phòng không Libya bắn trúng, tổ lái chiếc máy bay này thiệt mạng.

Cuộc tập kích được coi là thành công. Nó đã không lật đổ được Gadaffi, nhưng đã chấm dứt được các cuộc tấn công khủng bố do Libya tài trợ nhằm vào Mỹ.

1. Chiến tranh Vùng Vịnh

Các máy bay tham gia: F-117 Nighthawk, B-52 Stratofortress

Chiến tranh vùng Vịnh đã chứng kiến việc sử dụng một số máy bay ném bom tiên tiến nhất thời đó. Một ngày sau khi thời hạn chót mà Liên Hiệp Quốc đã đặt ra cho Iraq rút khỏi Kuwait, liên quân đã phát động một trong chiến dịch không kích lớn nhất mọi thời đại. Chiến dịch này do các lực lượng của Mỹ, Saudi Arabia, Pháp, Italia và lực lượng Kuwait tự do, cũng như một số nước Arab tiến hành.

Máy bay tiêm kích tàng hình F-117 của hãng Lockheed đã được sử dụng trong chiến dịch này. Các máy bay F-117 đã bay trên Baghdad và phá hủy các trung tâm chỉ huy và kiểm soát quan trọng. Lực lượng phòng không Baghdad chỉ bắn hú họa vì F-117 không thể bị nhìn thấy do nó có công nghệ tàng hình vượt trội. Sau đó, B-52, một trong loại máy bay ném bom lớn nhất từng được chế tạo trong lịch sử, đã nhập cuộc tấn công. Chúng đã bay trên chặng đường 2 chiều hơn 22.000 km trong gần 35 giờ, dài nhất tính đến thời điểm đó. Các tiêm kích-bom khác đã cùng tham gia không kích và hầu hết các hệ thống phòng thủ của Iraq nhanh chóng bị đánh tê liệt và bị gây nhiễu.

Trong hơn 1 tháng, máy bay liên quân liên tục đánh bất kỳ mục tiêu nào có khả năng gây ra đe dọa. Ngay trong ngày đầu tiên của Chiến dịch Bão táp Sa mạc, các trung tâm chỉ huy mặt đất của Iraq và các hệ thống phòng không đã bị phá hủy. Đó là lúc các máy bay tiêm kích nhập cuộc. Các máy bay Jaguar, F-16 và F/A-18 tàn phá một cách hệ thống tất cả những cứ điểm Iraq còn lại. Các máy bay ném bom Tornado của Không quân Hoàng gia Anh cũng đã bay đến tàn phá tất cả những gì còn lại ở Iraq. Sau đó, các tốp máy bay Buccaneer và Tornado sử dụng các thùng laser chiếu xạ và tên lửa để tiêu diệt tất cả các cầu đường bộ quan trọng trên khắp Iraq. 20 cây cầu bắc qua sông Tigris và Euphrates đã bị phá hủy, cắt đứt tất cả các tuyến đường cung cấp và thông tin liên lạc với lực lượng quân đội Iraq ở Kuwait.

Trong giai đoạn cuối cuộc chiến, các máy bay B-52 của Mỹ đã tấn công lực lượng mặt đất của Iraq, chủ yếu là các sư đoàn tại Kuwait và miền nam Iraq. Ngày 3/3/1991, Iraq cuối cùng đã chấp nhận ngừng bắn.

Chiến tranh vùng Vịnh này đã cho thấy tiềm năng của máy bay ném bom hiện đại trong việc tàn phá toàn bộ và đánh bại cả quốc gia. Iraq đã học được điều đó bằng một cách khó khăn.

 

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại